Bước tới nội dung

Huyện Gò Công Đông

Từ Gò Công Wiki
(Đổi hướng từ Gò Công Đông)

Tổng quan

  • Tên gọi: Huyện Gò Công Đông
  • Năm thành lập: 1979 (sau khi tách từ huyện Gò Công cũ)
  • Là một trong ba huyện thuộc khu vực Gò Công (gồm Gò Công Tây, Gò Công Đông và thị xã Gò Công).

Vị trí địa lý

  • Nằm ở phía Đông tỉnh Tiền Giang.
  • Phía Bắc giáp huyện Gò Công Tây và thị xã Gò Công.
  • Phía Tây giáp huyện Chợ Gạo.
  • Phía Đông giáp Biển Đông.
  • Phía Nam giáp huyện Tân Phú Đông (qua sông Cửa Tiểu).

Lịch sử hình thành:

Huyện Gò Công Đông là vùng đất được khai phá sớm ở Tiền Giang. Trong các thế kỷ XVII – XVIII, vùng đất Gò Công Đông lúc đó lần lượt thuộc đạo Trường Đồn (1772); dinh Trường Đồn (1779); dinh Trấn Định (1781).

Năm 1808, dưới đời vua Gia Long, vùng đất Gò Công Đông thuộc tổng Hòa Bình, huyện Kiến Hòa, phủ Kiến An, trấn Định Tường. Năm 1836, dưới đời vua Minh Mạng, vùng đất này thuộc tổng Hòa Lạc, huyện Tân Hòa, phủ Tân An, tỉnh Gia Định. Năm 1841, dưới đời vua Thiệu Trị, thuộc hai tổng Hòa Lạc Thượng và Hòa Lạc Hạ, huyện Tân Hòa, phủ Hòa Thạnh, tỉnh Gia Định. Năm 1852, dưới đời vua Tự Đức, vẫn thuộc hai tổng Hòa Lạc Thượng và Hòa Lạc Hạ, huyện Tân Hòa, phủ Tân An, tỉnh Gia Định.

Dưới thời thực dân Pháp thống trị, năm 1867, vùng đất Gò Công Đông thuộc hai tổng Hòa Lạc Thượng và Hòa Lạc Hạ, hạt Thanh tra Gò Công. Năm 1871, vẫn thuộc hai tổng trên, hạt Tham biện Gò Công. Năm 1876, thuộc tổng Hòa Lạc Thượng và tổng Hòa Lạc Hạ, Tiểu khu hành chính Gò Công. Năm 1900, thuộc hai tổng Hòa Lạc Thượng và Hòa Lạc Hạ, tỉnh Gò Công. Năm 1910, vùng đất Gò Công Đông vẫn thuộc hai tổng Hòa Lạc Thượng và Hòa Lạc Hạ, tỉnh Gò Công. Cụ thể như sau:

- Tổng Hòa Lạc Thượng có 7 làng: Bình Thạnh, Bình Thạnh Đông, Bình Xuân, Tân Niên Đông, Tân Niên Tây, Tân Niên Trung, Tân Phước.

- Tổng Hòa Lạc Hạ có 10 làng: Bình Ân, Dương Phước, Hòa Nghị, Kiểng Phước, Tân Bình Điền, Tân Duân Đông, Tân Duân Trung, Tăng Hòa, Tân Thành, Thành Phố.

Năm 1913, tỉnh Gò Công giải thể để thành lập quận Gò Công thuộc tỉnh Mỹ Tho. Hai tổng Hòa Lạc Thượng và Hòa Lạc Hạ thuộc quận Gò Công, tỉnh Mỹ Tho.

Năm 1924, tỉnh Gò Công được tái lập. Từ đó đến năm 1954, vùng đất Gò Công Đông có hai tổng  Hòa Lạc Thượng và Hòa Lạc Hạ thuộc tỉnh Gò Công. Cụ thể như sau:

- Tổng Hòa Lạc Thượng có 7 làng: Bình Thạnh Đông, Bình Xuân, Gia Thuận,  Tân Niên Đông, Tân Niên Tây, Tân Niên Trung, Tân Phước.

- Tổng Hòa Lạc Hạ có 10 làng: Bình Ân, Dương Phước, Hòa Nghị, Kiểng Phước, Tân Bình Điền, Tân Duân Đông, Tân Duân Trung, Tăng Hòa, Tân Thành, Thành Phố.

Về phía chính quyền Cách mạng, từ năm 1945-1951, xóa cấp “tổng”, và đổi tên “làng” thành “xã”, vùng đất Gò Công Đông có 17 xã (như đã nêu trên) thuộc tỉnh Gò Công; năm 1951, khi tỉnh Mỹ Tho (mới) được thành lập, còn gọi là tỉnh Mỹ Tân Gò, vùng đất Gò Công Đông thuộc huyện Gò Công.

Từ năm 1954-1975, về phía chính quyền Sài Gòn, tháng 4-1955, vùng đất Gò Công Đông là  quận Châu Thành, tỉnh Gò Công với 2 tổng: tổng Hòa Lạc Thượng có 7 làng, tổng Hòa Lạc Hạ có 10 làng. Quận lỵ là làng Thành phố.

Tháng 11/1956, hợp nhất tỉnh Gò Công và tỉnh Mỹ Tho để thành lập tỉnh Định Tường; quận Châu Thành được đổi tên thành quận Gò Công, có 2 tổng, 15 xã, quận lỵ đặt tại xã Long Thuận, chia ra như sau:

- Tổng Hòa Lạc Thượng: có 08 xã: Bình Thạnh Đông, Bình Xuân, Gia Thuận,  Tân Niên Đông, Tân Niên Tây, Tân Niên Trung, Tân Phước, Kiểng Phước.

- Tổng Hòa Lạc Hạ: có 07 xã: Bình Ân, Phước Trung (Dương Phước và Tân Duân Trung cũ), An Hòa (Hòa Nghị và Tân Duân Đông),  Tân Bình Điền, Tăng Hòa, Tân Thành, Long Thuận (Thành Phố và Long Chánh cũ).

Năm 1963, tỉnh Gò Công tái lập, Năm 1965, quận Gò Công (nay tương ứng với vùng đất Gò Công Đông) được chia thành 2 quận: Quận Hòa Tân, quận lỵ đặt tại xã Tân Niên Tây với 09 xã; Quận Hòa Lạc, quận lỵ tại xã Tăng Hòa với 09 xã.

Năm 1970, vùng đất Gò Công Đông tương ứng với 2 quận Hòa Tân và Hòa Lạc. Cụ thể như sau:

- Quận Hòa Tân, quận lỵ đặt tại xã Tân Niên Tây với 10 xã: Bình Thạnh Đông, Bình Xuân, Gia Thuận, Kiểng Phước, Tân Niên Đông, Tân Niên Tây, Tân Niên Trung, Tân Phước, Thành Công, Vàm Láng.

- Quận Hòa Lạc, quận lỵ tại xã Tăng Hòa với 9 xã: An Hòa, Bình Ân, Bình Tân, Long Thuận, Phước Trung, Tăng Hòa, Tân Bình Điền, Tân Thành, Yên Luông.

Các đơn vị hành chính này tồn tại đến năm 1975.

Về phía chính quyền cách mạng, từ 1957-1968, vùng đất Gò Công Đông thuộc huyện Gò Công, tỉnh Mỹ Tho. Năm 1968, tỉnh Gò Công được tái lập, vùng đất Gò Công Đông thuộc huyện Đông, tỉnh Gò Công. Năm 1972, tỉnh Gò Công được chia lại các đơn vị hành chính để phù hợp với tình hình thực tiễn trên chiến trường. Theo đó, vùng đất Gò Công Đông gồm có Vùng 2 (tương ứng với quận Hòa Tân theo cách đặt của chính quyền Sài Gòn) và Vùng 4 (tương ứng với quận Hòa Lạc theo cách đặt của chính quyền Sài Gòn). Các đơn vị hành chính này tồn tại đến ngày 30/4/1975.

Sau ngày 30/4/1975, chính quyền Cách mạng đặt lại huyện Đông thuộc tỉnh Gò Công. Năm 1976, tỉnh Gò Công hợp nhất với tỉnh Mỹ Tho và thành phố Mỹ Tho để thành lập tỉnh Tiền Giang. Lúc này, huyện Đông sáp nhập với huyện Tây thành huyện Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang.

Ngày 26/3/1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 77-CP. Theo đó, chuyển thị xã Gò Công thành thị trấn Gò Công, là thị trấn huyện lỵ huyện Gò Công. Ngày 13/4/1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 155-CP. Theo đó, chia huyện Gò Công thành hai huyện Gò Công Đông và Gò Công Tây.

Huyện Gò Công Đông gồm thị trấn Gò Công và 16 xã: Bình Ân, Bình Đông, Bình Nghị, Bình Xuân, Gia Thuận, Kiểng Phước, Phú Đông, Phước Trung, Tăng Hòa, Tân Điền, Tân Đông, Tân Phước, Tân Tây, Tân Thành, Tân Trung, Vàm Láng.

Ngày 13/2/1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 23-HĐBT. Theo đó, giải thể xã Tăng Hòa để thành lập thị trấn Tân Hòa, là thị trấn huyện lỵ huyện Gò Công Đông. Ngày 16/2/1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 37-HĐBT. Theo đó, tách thị trấn Gò Công và một phần diện tích, dân số của hai xã Tân Đông, Bình Nghị để tái lập thị xã Gò Công. Huyện Gò Công Đông còn lại 35.942 ha diện tích tự nhiên và 149.845 người với 16 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 1 thị trấn và 15 xã.

Ngày 9/3/1992, chia xã Phú Đông thành hai xã Phú Đông và Phú Tân. Ngày 14/1/2002, tái lập xã Tăng Hòa trên cơ sở 1.745,67 ha diện tích tự nhiên và 9.568 người của thị trấn Tân Hòa. Cuối năm 2007, huyện Gò Công Đông có 18 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm thị trấn Tân Hòa và 17 xã: Bình Ân, Bình Đông, Bình Nghị, Bình Xuân, Gia Thuận, Kiểng Phước, Phú Đông, Phú Tân, Phước Trung, Tăng Hòa, Tân Điền, Tân Đông, Tân Phước, Tân Tây, Tân Thành, Tân Trung, Vàm Láng.

Ngày 21/1/2008, Chính phủ ban hành Nghị định 09/2008/NĐ-CP. Theo đó: Chuyển 3 xã Bình Đông, Bình Xuân và Tân Trung về thị xã Gò Công quản lý. Tách 2 xã Phú Đông và Phú Tân để thành lập huyện Tân Phú Đông. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, huyện Gò Công Đông còn lại 26.768,16 ha diện tích tự nhiên và 143.418 người với có 13 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 1 thị trấn và 12 xã.

Ngày 30/9/2010, giải thể xã Vàm Láng để thành lập thị trấn Vàm Láng. Huyện Gò Công Đông có 2 thị trấn và 11 xã như hiện nay, bao gồm 2 thị trấn: Tân Hòa (huyện lỵ), Vàm Láng và 11 xã: Bình Ân, Bình Nghị, Gia Thuận, Kiểng Phước, Phước Trung, Tân Điền, Tân Đông, Tân Phước, Tân Tây, Tân Thành, Tăng Hòa. Năm 2020, huyện được công nhận đạt chuẩn xã Nông thôn mới; 02/02 thị trấn đạt chuẩn Văn minh đô thị.

Đặc sản: Mắm tôm chà, mắm tôm chua, mắm còng, nghêu Tân Thành, mực bò Tân Điền, các loại cá khô Vàm Láng, trái sơ ri tươi, mứt sơ ri, dưa hấu Đền Đỏ (Tân Thành), bánh nghệ Tân Tây,…

Diện tích & Dân số

  • Diện tích tự nhiên khoảng 358 km².
  • Dân số hiện nay khoảng 180.000–190.000 người.
  • Mật độ dân số trung bình khoảng 500 người/km².

Hành chính

Huyện được chia làm 17 xã, 1 thị trấn, trong đó có 6 xã ven biển: Tân Phước, Gia Thuận, Vàm Láng, Kiểng Phước, Tân Thành, Tân Điền, 2 xã cù lao: Phú Đông, Phú Tân và 9 xã nội địa: Bình Đông, Bình Xuân, Bình Nghị, Bình Ân, Tân Trung, Tân Tây, Tân Đông, Phước Trung, Tăng Hòa và thị trấn Tân Hòa. Toàn huyện có 120 ấp, trong đó 55 ấp ven biển. Huyện lỵ đặt tại thị trấn Tân Hòa.

  1. Thị trấn Vàm Láng (huyện lỵ)
  2. Thị trấn Tân Hòa
  3. Xã Bình Ân
  4. Xã Bình Nghị
  5. Xã Bình Đông
  6. Xã Bình Xuân
  7. Xã Bình Nghị
  8. Xã Gia Thuận
  9. Xã Kiểng Phước
  10. Xã Phước Trung
  11. Xã Tân Điền
  12. Xã Tân Đông
  13. Xã Tân Phước
  14. Xã Tân Tây
  15. Xã Tân Thành
  16. Xã Tân Trung
  17. Xã Tăng Hòa
  18. Xã Vàm Láng
  19. Xã Phú Đông
  20. Xã Phú Tân

Đặc điểm tự nhiên và kinh tế

  • Gò Công Đông nằm ở vùng ven biển, có nhiều cồn, bãi bồi, rừng phòng hộ và hệ thống đê biển Gò Công nổi tiếng.
  • Là vùng trọng điểm nuôi trồng và khai thác thủy sản của Tiền Giang, đặc biệt là nghêu, sò, tôm, cá biển.
  • Ngoài ra còn có nông nghiệp lúa, cây ăn trái, muối và chăn nuôi gia súc gia cầm.
  • Huyện đang phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió ven biển.
  • cảng cá Vàm Láng – một trong những cảng lớn nhất của khu vực Nam Bộ, là trung tâm thu mua và chế biến hải sản.

Giao thông và hạ tầng

  • Có quốc lộ 50 nối từ Mỹ Tho đi Gò Công và đến Gò Công Đông.
  • Đường ven biển đang được mở rộng để kết nối với các dự án điện gió và du lịch sinh thái.
  • bến phà Tân Long nối sang huyện Tân Phú Đông.
  • Nhiều tuyến đường đê ven biển được gia cố để chống xói lở và phục vụ giao thông.

Du lịch và văn hóa

  • Nổi tiếng với biển Tân Thành, bãi biển đen do phù sa, có cầu dài hàng trăm mét vươn ra biển – điểm du lịch quen thuộc của vùng Gò Công.
  • Lăng Hoàng Gia Gò Công, đình Tân Đông (ngôi đình cổ giữa rừng cây đổ nát), và nhiều di tích văn hóa Nam Bộ cổ.
  • Lễ hội Nghinh Ông Vàm Láng được tổ chức hàng năm, là nét văn hóa đặc trưng của ngư dân vùng biển.

Thách thức và định hướng phát triển

  • Khu vực ven biển thường xuyên chịu ảnh hưởng của xói lở, triều cường, nước mặn và biến đổi khí hậu.
  • Chính quyền đang đầu tư mạnh vào đê biển Gò Công, rừng phòng hộ, và dự án điện gió – điện mặt trời.
  • Huyện hướng đến phát triển theo mô hình kinh tế xanh và du lịch sinh thái biển kết hợp năng lượng tái tạo.

Kinh tế:

Cơ cấu kinh tế của huyện chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng các ngành công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ tăng, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm.

Tổng giá trị sản xuất các ngành kinh tế chủ yếu tính đến cuối năm 2019 đạt 9.564 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất các ngành kinh tế chủ yếu đạt trung bình 10,8%/năm (giai đoạn 2016-2019), trong đó: Giá trị sản xuất ngành nông - ngư - lâm nghiệp đạt 6.306 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 65,93%), tốc độ tăng đạt 4,19%; giá trị sản xuất ngành công nghiệp - xây dựng đạt 1.820 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 19,03%), tốc độ tăng đạt 16%; giá trị sản xuất ngành thương mại - dịch vụ đạt 1.438 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 15,04%), tốc độ tăng đạt 6,6%. Tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội: 2.510 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch. Thu nhập bình quân đầu người của huyện hiện đạt 55,77 triệu đồng người/năm.

Tổng sản lượng thủy sản cả năm 2021 đạt tấn, chiếm tỷ lệ 90,4% so với kế hoạch (tăng 164 tấn so năm 2020), trong đó: sản lượng nuôi được 21.660 tấn, đạt 88,3% so với kế hoạch (tăng 1.164 tấn so với năm 2020), sản lượng khai thác biển được 55.000 tấn, đạt 91,3% so với kế hoạch (giảm 1.000 tấn so với năm 2020). Nuôi thủy sản với diện tích là 3.314 ha, đạt 98,5% so với kế hoạch (giảm 40 ha so với năm 2020). Trong đó: Nuôi tôm với diện tích là 839 ha, sản lượng được 3.160 tấn; nuôi nghêu với diện tích là 2.200 ha, ước sản lượng được 17.400 tấn; nuôi cá với diện tích là 275 ha, ước sản lượng được 1.100 tấn. Trong năm các mặt hàng thủy sản nuôi (đặc biệt là nghêu) có mức giá rất cao, giúp người nuôi mang về lợi nhuận cao.

Khai thác biển: hiện toàn huyện có khoảng 913 phương tiện đánh bắt thuỷ hải sản (giảm 09 phương tiện so với năm 2020), với tổng công suất là 355.588 CV. Trong đó: tàu đánh bắt xa bờ (từ 15m trở lên) là 690 phương tiện, với tổng công suất 339.988 CV, còn lại là các tàu có công suất nhỏ, đánh bắt gần bờ. Trong năm 2021, tình hình thời tiết tương đối thuận lợi cho hoạt động khai thác biển, đa số các tàu có công suất lớn đều có lãi, nhất là các phương tiện đánh bắt biển xa, nghề lưới. Tuy nhiên, tàu có công suất nhỏ, hoạt động chủ yếu nghề cào te hoạt động kém hiệu quả do nguồn lợi thủy sản ven bờ giảm.

Giáo dục:

Năm 2020, toàn huyện Gò Công Đông có 38 trường học công lập trên địa bàn các xã (11 trường mầm non, 16 trường tiểu học, 09 trường trung học cơ sở, 02 trường trung học phổ thông: Trường THPT Gò Công Đông và Trường THPT Nguyễn Văn Côn) hệ thống trường lớp được tăng cường đầu tư theo hướng đạt chuẩn quốc gia đã góp phần quan trọng vào công tác đào tạo nguồn nhân lực, cũng như phát triển văn hóa – xã hội của huyện. Trong giai đoạn 2011-2020, huyện đã đầu tư cải tạo, nâng cấp được 24 trường (cấp mầm non 08 trường, cấp tiểu học 11 trường, cấp trung học cơ sở 05 trường, cấp trung học phổ thông 02 trường) từ nguồn ngân sách cấp tỉnh, cấp huyện, chương trình mục tiêu quốc gia cùng các nguồn vận động với tổng kinh phí 297,8 tỷ đồng, cho phép thành lập 04 nhóm trẻ tư thục đáp ứng nhu cầu học tập của con em địa phương. Đến nay, toàn huyện có 31/36 trường đạt chuẩn về vật chất và trang thiết bị dạy học, tỷ lệ 86,1% (09/11 trường Mầm non, 16/16 trường Tiểu học, 06/09 trường THCS)  trong đó số trường đã được công nhận đạt chuẩn quốc gia: 22/36 , tỷ lệ 61,1% (05/11 trường Mầm non, 11/16 trường Tiểu học, 06/09 trường THCS). Các trường học còn lại (Mầm non 02 trường, Trung học cơ sở 03 trường) được UBND huyện, UBND các xã quan tâm tiếp tục đầu tư một số hạng mục để hoàn thành đạt chuẩn về cơ sở vật chất trong giai đoạn 2020 - 2025.

Toàn huyện có 27/41 trường đạt chuẩn quốc gia (gồm 08 trường mầm non, 13 trường tiểu học, 06 trường THCS), đạt tỷ lệ 65,85%, tăng 11,09% so với cùng kỳ. Tỷ lệ trường đạt chuẩn so với tổng số trường của từng bậc học là mầm non 61,54%, tiểu học 72,2%, trung học cơ sở 60%. Công tác chống mù chữ, phổ cập giáo dục tiếp tục được duy trì và thực hiện. Năm 2020, huyện được UBND tỉnh công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học mức 3, phổ cập giáo dục THCS mức 2, xóa mù chữ mức 2.

Chất lượng giáo dục các cấp học đều được nâng cao qua hằng năm; tỷ lệ trẻ cấp mầm non suy dinh dưỡng thể nhẹ cân và suy dinh dưỡng thể thấp còi hàng năm đều giảm. Có 100% trẻ 5 tuổi ra lớp mẫu giáo; 100% trẻ ra lớp được khám sức khỏe định kỳ. Hàng năm huy động 100% trẻ 6 tuổi vào lớp 1, không có học sinh cấp tiểu học bỏ học; có trên 99% học sinh hoàn thành chương trình tiểu học, các chỉ số luôn được duy trì, củng cố vững chắc; đặc biệt là công tác bồi dưỡng học sinh giỏi các môn văn hóa, các môn năng khiếu luôn được quan tâm và đã đạt được nhiều thành tích tốt; có trên 98% học sinh hoàn thành chương trình tiểu học đăng ký tuyển sinh vào lớp 6. Chất lượng hai mặt giáo dục cấp trung học cơ sở ngày càng được củng cố, nâng cao; tỷ lệ học sinh lớp 9 tốt nghiệp trung học cơ sở đạt trên 99% và tỷ lệ thi đỗ vào lớp 10 trung học phổ thông đều đạt trên 80%. Tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông, tỷ lệ đỗ đại học, cao đẳng năm sau cao hơn năm trước.

Hiện nay, đa số các trường học trên địa bàn huyện có khuôn viên đủ diện tích theo quy định trường chuẩn quốc gia; có đầy đủ phòng học, phòng học bộ môn, phòng phục vụ học tập, phòng hành chính quản trị, phòng y tế, ...; có đủ bàn ghế phù hợp với học sinh, có bảng, bàn ghế của giáo viên và đều đạt chuẩn; các khu công trình công cộng; hệ thống lưới điện đảm bảo phục vụ hoạt động của nhà trường; các trường đều có hệ thống công nghệ thông tin, có kết nối Internet, có Website riêng; 100% các trường đang sử dụng nước sạch hợp vệ sinh, có hệ thống thoát nước, sân chơi, bãi tập, khu nhà vệ sinh riêng cho học sinh, giáo viên, có tách riêng cho nam, nữ đảm bảo theo quy định; khu sân chơi, bãi tập có cây xanh, bóng mát đảm bảo môi trường xanh, sạch, đẹp, an toàn, cụ thể:

Y tế:

Toàn huyện 13 Trạm Y tế (tất cả đều đạt chuẩn Quốc gia), 02 cơ sở Trung tâm Y tế tuyến huyện với 44 bác sĩ, 61 y sĩ, 27 dược sĩ, 27 nữ hộ sinh. Công tác khám chữa bệnh tại cơ sở trong toàn huyện được nâng chất, tinh thần thái độ phục vụ bệnh nhân ngày càng tốt hơn, tạo được lòng tin trong nhân dân. Trong năm 2021, toàn huyện có 198.655 trường hợp khám chữa bệnh (tính từ ngày 01/01/2021); trong đó trẻ em dưới 05 tuổi là 7.555 trường hợp; khám bảo hiểm y tế 141.532 trường hợp. Công tác tuyên truyền, vận động các cặp vợ chồng trong tuổi sinh đẻ áp dụng các biện pháp kế hoạch hóa gia đình, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, sàng lọc trước sinh và sơ sinh được tập trung thực hiện. Kết quả thực hiện: tỷ lệ sàng lọc trước sinh là 68,72% so với chỉ tiêu 62%; tỷ lệ sàng lọc sơ sinh 91,43% so với chỉ tiêu 88%; Tỷ lệ các cặp vợ chồng sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại 78,70 % so với chỉ tiêu 75%.

Đến tháng 5/2020, tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế toàn huyện đạt tỷ lệ 97,04%, trong đó 11/11 xã xây dựng nông thôn mới đều đạt trên 85% (trong đó cao nhất là 03 xã bãi ngang, ven biển: Kiểng Phước, Phước Trung và Gia Thuận, đạt tỷ lệ 100%; thấp nhất là xã Tân Đông, đạt tỷ lệ 85,6%). Chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên, 100% Trạm y tế xã đều có bác sĩ; cơ sở vật chất y tế được quan tâm, từng bước hiện đại hóa trang thiết bị, góp phần cải thiện đáng kể các chỉ số sức khỏe cộng đồng. Hết năm 2018 toàn huyện có 11/11 xã đạt bộ tiêu chí Quốc gia về y tế giai đoạn đến năm 2020. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng thể thấp còi (chiều cao theo tuổi) toàn huyện tính đến tháng 12/2019 là 1.334/9.728 trẻ em (chiếm 13,7%, giảm 6,7% so với năm 2011), 11/11 xã đều có tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng, thể thấp còi dưới 16% (trong đó xã có tỷ lệ thấp nhất là xã Tân Điền, chiếm 9,6%; xã có tỷ lệ cao nhất là xã Kiểng Phước, chiếm 16,0%).

Giao thông:

Hiện nay, trên địa bàn 13 xã thị trấn của huyện có 05 tuyến đường tỉnh (ĐT) đi qua với tổng chiều dài 50,13km: ĐT 862, ĐT 871, ĐT 873B, ĐT 871B, ĐT 871C); tổng số 12 tuyến đường huyện (ĐH): ĐH 01, ĐH 02, ĐH 03, ĐH 04, ĐH 05, ĐH 06, ĐH 07, ĐH 08, ĐH 08B, ĐH 09, ĐH 10, ĐH 11 với tổng chiều dài 89.567m. Năm 2020, toàn bộ 12 tuyến đường huyện đã được nhựa hóa đạt cấp đường tối thiểu loại VI. Đạt tỷ lệ 100% theo quy định (tăng 59,3% so với năm 2011).

Trên toàn hệ thống đường huyện có tổng số 23 cầu và 09 cống được xây dựng với kết cấu bê tông cốt thép kiên cố đảm bảo phù hợp với đường cấp VI theo quy hoạch. Tuy nhiên có một số cầu do được đầu tư xây dựng trước khi xây dựng mở rộng đường nhưng hiện nay còn đảm bảo tải trọng phù hợp với đường cấp VI nên chưa đầu tư xây dựng để sử dụng đồng bộ với đường. Những cầu này trong thời gian tới huyện sẽ chú trọng đầu tư xây dựng mở rộng và nâng tải trọng để sử dụng đồng bộ với đường.

Hàng năm, công tác duy tu sửa chữa các tuyến đường huyện quản lý luôn được chú trọng với kinh phí phân bổ khoảng 3 tỷ đồng/năm. Ủy ban nhân dân huyện giao Phòng Kinh tế tế và Hạ tầng thường xuyên kiểm tra, phát hiện kịp thời các điểm hư hỏng trên các tuyến đường huyện để có biện pháp duy tu dặm vá khắc phục đảm bảo an toàn giao thông và bảo dưỡng công trình giao thông được sử dụng lâu dài.

Hệ thống giao thông thủy trên địa bàn tạo lợi thế lớn trong lưu thông liên thông với Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận như Bến Tre, Long An, Trà Vinh. Huyện Gò Công Đông có trên 20 km giáp biển; có đoạn sông Soài Rạp nối liền với sông Vàm Cỏ và có sông Cửa Tiểu chạy ra sông Tiền. Đồng thời có 2 cửa sông lớn ở 2 đầu Nam, Bắc thông ra Biển Đông. Phía Đông nối liền huyện Cần Giờ, cảng Hiệp Phước, Thành Phố Hồ Chí Minh qua sông Soài Rạp, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu qua Biển Đông.

Trên địa bàn huyện có 03 tuyến thủy nội địa (tuyến sông Cần Lộc, tuyến kênh Hội Đồng Quyền và tuyến sông Long Uông) tổng chiều dài là 7,52 km. Trên 03 tuyến đường thủy nội địa này, trong năm 2019 huyện lắp đặt hoàn chỉnh hệ thống báo hiệu giao thông đường thủy nội địa để các phương tiện thủy lưu thông được thuận lợi và an toàn.

Ngoài ra, trên địa bàn huyện còn có 03 bến khách ngang sông đang hoạt động vận chuyển hành khách và hàng hóa gồm: Bến khách Phước Trung (hiện đã bàn giao cho huyện Tân Phú Đông quản lý), bến khách Vàm Láng và bến khách Gia Thuận; các bến đều có giấy phép hoạt động và đảm bảo các điều kiện an toàn.

Hàng năm, huyện đều xây dựng kế hoạch kiểm tra hoạt động của các tuyến thủy nội địa, các bến khách, xử lý nghiêm đối với các trường hợp vi phạm.

Văn hóa:

Phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục - thể thao được xã hội hóa phong phú lành mạnh. Công tác thông tin cổ động phục vụ kịp thời yêu cầu nhiệm vụ chính trị địa phương. Tổ chức nhiều hoạt động vui chơi giải trí ngày lễ, tết, ngày hội truyền thống góp phần xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa. Quản lý nhà nước về văn hóa thực hiện chặt chẽ hơn. Hoạt động thư viện, bảo tồn, bảo tàng, di tích được tổ chức thực hiện theo yêu cầu đặt ra. Các di tích lịch sử, lịch sử - văn hóa; chiến tích cách mạng được trùng tu, sữa chửa kịp thời. Các hoạt động thể dục - thể thao được duy trì tập luyện thường xuyên; công tác đào tạo, bồi dưỡng vận động viên thể thao thành tích cao được quan tâm thực hiện. Đài truyền thanh huyện, xã, thị trấn được đầu tư mới, mạng lưới truyền thanh cơ sở được duy trì và phủ sóng đến tận ấp, khu phố tạo điều kiện tiếp cận các nguồn thông tin cho Nhân dân.

Phong trào xây dựng gia đình văn hóa được triển khai tuyên truyền vận động từ năm 1984. Qua quá trình vận động đăng ký xây dựng và tổ chức bình xét danh hiệu Gia đình văn hóa hàng năm có trên 90% hộ đạt 3 tiêu chuẩn Gia đình văn hóa theo quy định.

Xây dựng ấp văn hóa: tháng 6/1998 ấp Gò Táo xã Tân Đông là ấp văn hóa đầu tiên của huyện được công nhận. Đến năm 2012, toàn huyện có 101 ấp, khu phố được công nhận danh hiệu văn hóa, đạt tỉ lệ 100%; đến năm 2020 có 95/95 ấp, khu phố (giảm 6 ấp, khu phố do sáp nhập) văn hóa được công nhận lại, đạt tỉ lệ 100%.

Xây dựng xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới, thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị: đến năm 2020 toàn huyện có 11/11 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới, đạt tỉ lệ 100%; 02/02 thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị, đạt tỉ lệ 100%.

Xây dựng danh hiệu văn hóa công cộng: đến nay huyện đã công nhận 34 cơ sở thờ tự văn hóa, 38 con đường văn hóa, 05 chợ văn hóa và 01 công viên văn hóa.

Quản lý di tích: trên địa bàn huyện có 01 Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, 13 Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.

Các công trình văn hóa, thể thao được đầu tư xây dựng đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí cho nhân dân; đã xây dựng hoàn chỉnh Trung tâm Văn hóa - Thể thao và Truyền thanh huyện; 12 trung tâm văn hóa - thể thao xã, thị trấn; 34 nhà văn hóa liên ấp.

Du lịch:

Gò Công Đông là một trong hai huyện của tỉnh Tiền Giang giáp Biển Đông với chiều dài là 18,5 km; là đơn vị trọng điểm phát triển kinh tế biển của tỉnh (nuôi trồng, đánh bắt thủy sản, hậu cần nghề cá, du lịch sinh thái). Có khu du lịch biển Tân Thành được Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang phê duyệt khu du lịch sinh thái biển Tân Thành diện tích 80,36 ha; 01 Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia, 13 Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh trong đó có 05 di tích du khách thường xuyên đến tham quan.

Năm 2020, trên địa bàn huyện có 01 khu du lịch Biển Tân Thành và 01 điểm du lịch Vườn táo chú 6 Hồi, xã Tân Thành. Hàng năm, huyện đón trên 50.000 lượt khách đến tham quan tại khu du lịch biển Tân Thành và và di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn huyện. Bình quân hàng năm lượng khách du lịch tăng khoảng từ 2 - 3% chủ yếu là lượng khách nội địa, khách quốc tế chiếm khoảng 1% lượng khách đến dụ lịch tại các điểm trên địa bàn huyện.

Bên cạnh đó, còn chú trọng đầu tư, cải tạo cơ sở vật chất phục vụ cho du lịch: Cải tạo và xây dựng mới toàn bộ hệ thống đê và  kè chắn sóng khu vực biển Tân Thành; đầu tư mở rộng di tích Đền thờ Anh hùng dân tộc Trương Định và tôn tạo, trùng tu các di tích lịch sử - văn hóa đã được công nhận.

Đầu tư xúc tiến, quảng bá du lịch bằng các hình thức như: thực hiện chương trình “Món ngon Phương Nam” và “Rong ruổi đất Phương Nam”; thực hiện “Ký sự truyền hình qua 9 cửa sông”; chương trình “Một thoáng Gò Công”; thực hiện tập phim “Xứ sở của nghiêu và câu chuyện về xóm Đèn Đỏ”; chương trình Món ngon Phương Nam “Đặc sản Gò Công”. Đồng thời, phối hợp với Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn (Saigontourist Group) tổ chức khảo sát sản phẩm du lịch trên địa bàn huyện, để hình thành các tour du lịch, khai thác các thị trường du lịch trong và ngoài nước.

Thể thao:

Xác định đây là lực lượng chính để duy trì và phát triển phong trào thể dục, thể thao địa phương. Do đó các cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể quan tâm và tăng cường đẩy mạnh thực hiện phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và chương trình xây dựng nông thôn mới, xây dựng đô thị văn minh, đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức của nhân dân, hưởng ứng tham gia và lựa chọn các môn thể thao phù hợp để luyện tập, thu hút đông đảo mọi người ở các thành phần, lứa tuổi, giới tính, tham gia tập luyện thường xuyên tại các Câu lạc bộ, Trung tâm Văn hóa-Thể thao và Truyền thanh huyện, Trung tâm Văn hóa-Thể thao các xã, thị trấn... với nhiều nội dung và hình thức tập luyện ở các môn: bóng đá, bóng chuyền, chạy bộ, võ Taekwondo, võ cổ truyền, thể dục dưỡng sinh,... Hàng năm, Ủy ban nhân dân huyện Gò Công Đông đã triển khai kế hoạch phát động tổ chức Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân; Phát động Toàn dân luyện tập môn bơi phòng, chống đuối nước... Qua phát động có 5.950 cán bộ, học sinh và quần chúng tham gia. Đến nay, số người tập luyện thể dục, thể thao đạt 41.89% dân số; đạt 28.5% hộ gia đình tập luyện thể dục, thể thao. Hoạt động thể dục, thể thao trên địa bàn huyện ngày càng phát triển mạnh, tăng cường sức khỏe cho mọi người, mọi giới, tác động đến việc nâng cao hiệu quả và nâng suất trong lao động, sản xuất, học tập, đẩy mạnh tiến độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn huyện.

Trong thời gian qua, Ủy ban nhân dân huyện quan tâm tập trung chỉ đạo việc quy hoạch, đầu tư phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, kêu gọi đầu tư, xã hội hóa, xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở đáp ứng nhu cầu của các tầng lớp nhân dân. Cơ sở vật chất tổ chức thi đấu tuyến huyện được củng cố đảm bảo cho thi đấu và phát triển phong trào thể dục, thể thao quần chúng, đến nay có  12/13 xã, thị trấn đã thành lập Trung tâm Văn hóa - Thể thao từng bước hoạt động có hiệu quả, trong đó việc xây dựng củng cố thể dục, thể thao quần chúng ở cơ sở, xã nông thôn mới đã được quy hoạch từng bước theo tiêu chuẩn của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.

Đầu tư xây dựng đưa vào sử dụng 12/13 Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã, thị trấn với kinh phí 70 tỷ đồng; 34 Nhà văn hóa liên ấp với kinh phí 45 tỷ đồng; xây dựng Trung tâm Văn hóa - Thể thao và Truyền thanh huyện với kinh phí 56,3 tỷ đồng nhằm đảm bảo phục vụ tốt nhu cầu tập luyện thể dục, thể thao cho nhân dân.

Ngoài nhiệm vụ trọng tâm về tăng cường quản lý nhà nước đối với lĩnh vực thể dục, thể thao và phát triển phong trào thể dục, thể thao quần chúng, thể thao thành tích cao thì việc xây dựng cơ sở vật chất thể dục, thể thao được các cấp lãnh đạo tỉnh và huyện đặc biệt quan tâm.

Điều nổi bật trong 10 năm qua là tổ chức thành công 2 lần Đại hội thể dục, thể thao các cấp lần VII và lần VIII; 13/13 xã, thị trấn tổ chức tốt Đại hội Thể dục, thể thao cấp cơ sở, thu hút nhiều vận động viên tham dự so với lần Đại hội trước, số môn thi đấu nhiều hơn, chất lượng chuyên môn được nâng lên một bước, đánh dấu sự phát triển mới của phong trào thực sự là Ngày hội thể thao của toàn dân. Huyện đã tổ chức 40 giải thi đấu cấp huyện với 4.962 vận động viên tham dự. Phát hiện, bồi dưỡng vận động viên trẻ để bổ sung cho lực lượng vận động viên của huyện ở các bộ môn. Tham gia 48 giải cấp tỉnh đạt nhiều thành tích. Các trường đều được quan tâm đầu tư cơ sở vật chất theo yêu cầu của ngành giáo dục và đào tạo, phù hợp với đặc điểm và tình hình thực tế của địa phương, giáo viên thể dục của các trường hiện nay là giáo viên chuyên trách không còn tình trạng kiêm nhiệm.

Ngoài các giải đấu cấp huyện, huyện còn đăng cai tổ chức các giải cấp tỉnh, chào mừng các sự kiện chính trị trọng đại của tỉnh và huyện, qua các giải đăng cai tổ chức và tham gia thi đấu đều được đánh giá cao và góp phần nâng cao uy tín của ngành thể dục, thể thao huyện nhà. Các hoạt động trên đã góp phần tác động và thúc đẩy phong trào thể dục - thể thao thành tích cao trên địa bàn không ngừng phát triển.