Bước tới nội dung

Huyện Tân Phú Đông

Từ Gò Công Wiki

Ý nghĩa tên đơn vị hành chính:

Địa danh Hán Việt:

Tân: 新: Mới mẻ; Phú富: Giàu có; Đông: 東: Phía đông.

新 Tân: Mới mẻ

富 Phú: Giàu có

東 Đông: Phía đông

縣 Huyện: Đơn vị hành chính dưới tỉnh; trên xã. thôn

新富東縣 Tân Phú Đông Huyện

Vị trí địa lý:

Huyện Tân Phú Đông nằm ở phía đông nam tỉnh Tiền Giang, phía Đông giáp Biển Đông; phía Tây và phía Nam giáp huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre; phía Bắc giáp huyện Chợ Gạo, huyện Gò Công Tây và huyện Gò Công Đông.

Diện tích tự nhiên: 22.311,26 ha.

Hành chính:

Huyện có 6 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm các xã: Phú Đông, Phú Tân, Tân Thới, Tân Phú, Tân ThạnhPhú Thạnh.

Lịch sử hình thành:

Năm 1808, dưới đời vua Gia Long, vùng đất cù lao Lợi Quan hiện nay tương ứng với 4 thôn: Tân Phong, Miễu Ông, Hòa Thới và Phú Thạnh Đông thuộc tổng Hòa Bình, huyện Kiến Hòa, phủ Kiến An, trấn Định Tường. Năm 1836, dưới đời vua Minh Mạng, trên cù lao Lợi Quan có 4 thôn: Tân Phong, Từ Linh (tên cũ là thôn Miễu Ông), Hòa Thới và Phú Thạnh Đông thuộc tổng Hòa Hằng, huyện Kiến Hòa, phủ Kiến An, tỉnh Định Tường. Năm 1848, đời vua Tự Đức, do kiêng húy thái hậu Từ Dụ/Từ Dũ (Phạm Thị Hằng) nên tổng Hòa Hằng đổi tên thành tổng Hòa Quới.

Dưới thời thực dân Pháp thống trị, năm 1867, toàn bộ cù lao Lợi Quan thuộc tổng Hòa Quới, hạt Thanh tra Gò Công). Lúc này, ba làng Tân Phong, Từ Linh và Hòa Thới được nhập lại thành một làng mới lấy tên là Tân Thới; làng Phú Thạnh Đông được giữ nguyên. Từ đó, địa phận cù lao Lợi Quan chỉ còn hai là làng là Tân Thới và Phú Thạnh Đông. Năm 1871, hai làng Tân Thới và Phú Thạnh Đông thuộc tổng Hòa Đồng Hạ, hạt Tham biện Gò Công. Năm 1876, hai làng này thuộc tổng Hòa Đồng Hạ, Tiểu khu hành chính Gò Công. Năm 1900, hai làng Tân Thới và Phú Thạnh Đông thuộc tổng Hòa Đồng Hạ, tỉnh Gò Công. Năm 1913, hai làng Tân Thới và Phú Thạnh Đông thuộc tổng Hòa Đồng Hạ, quận Gò Công, tỉnh Mỹ Tho. Từ năm 1924 -1954, hai làng Tân Thới và Phú Thạnh Đông thuộc tổng Hòa Đồng Hạ, tỉnh Gò Công.

Về phía chính quyền Cách mạng, từ năm 1945-1954, “làng” được gọi là “xã”; bãi bỏ cấp “tổng”. Theo đó, từ năm 1945-1951, hai xã Tân Thới và Phú Thạnh Đông thuộc tỉnh Gò Công; từ năm 1951-1954, khi tỉnh Mỹ Tho (mới) được thành lập, còn gọi là tỉnh Mỹ Tân Gò, hai xã Tân Thới và Phú Thạnh Đông thuộc huyện Gò Công, tỉnh Mỹ Tho.

Từ năm 1954-1975, về phía chính quyền Sài Gòn, năm 1955, hai làng Tân Thới và Phú Thạnh Đông thuộc tổng Hòa Đồng Hạ, quận Hòa Đồng tỉnh Gò Công. Năm 1956, “làng” được gọi là “xã”; tỉnh Gò Công và tỉnh Mỹ Tho được hợp nhất thành tỉnh Định Tường; hai xã Tân Thới và Phú Thạnh Đông thuộc tổng Hòa Đồng Hạ, quận Hòa Đồng, tỉnh Định Tường. Năm 1963, tỉnh Gò Công được tái lập; hai xã Tân Thới và Phú Thạnh Đông thuộc tổng Hòa Đồng Hạ, quận Hòa Đồng, tỉnh Gò Công. Năm 1965, chính quyền Sài Gòn bãi bỏ cấp “tổng”; chia tỉnh Gò Công thành 4 quận: Hòa Bình, Hòa Đồng, Hòa Lạc và Hòa Tân; hai xã Tân Thới và Phú Thạnh Đông thuộc quận Hòa Bình, tỉnh Gò Công. Sắp xếp hành chính này tồn tại đến ngày 30/4/1975.

Về phía chính quyền Cách mạng, từ năm 1954-1957, hai xã Tân Thới và Phú Thạnh Đông thuộc tỉnh Gò Công; từ năm 1957-1968, hai xã thuộc huyện Hòa Đồng, tỉnh Mỹ Tho. Năm 1968, tái lập tỉnh Gò Công, hai xã thuộc huyện Tây, tỉnh Gò Công. Năm 1972, hai xã thuộc Vùng 3, tỉnh Gò Công.

Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975), hai xã thuộc huyện Tây, tỉnh Gò Công. Năm 1976, tỉnh Gò Công hợp nhất với tỉnh Mỹ Tho và thành phố Mỹ Tho thành tỉnh Tiền Giang, hai xã thuộc huyện Gò Công, tỉnh Tiền Giang. Năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 155-CP. Theo đó, chia huyện Gò Công thành hai huyện Gò Công Đông và Gò Công Tây. Hai xã Tân Thới và Phú Thạnh Đông được chia tách thành 6 xã, bao gồm 4 xã Tân Thới, Tân Phú, Phú Thạnh và Tân Thạnh thuộc huyện Gò Công Tây; 2 xã: Phú Đông và Phú Tân thuộc huyện Gò Công Đông.

Năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định 09/2008/NĐ-CP. Theo đó, thành lập huyện Tân Phú Đông, bao gồm 4 xã: Tân Thới, Tân Phú, Phú Thạnh, Tân Thạnh thuộc huyện Gò Công Tây và 2 xã: Phú Đông, Phú Tân thuộc huyện Gò Công Đông. Huyện có 02 xã được công nhận đạt chuẩn xã Nông thôn mới: xã Tân Thới (2020) và xã Tân Phú (2021).

Đặc sản: mắm còng, trái mãng cầu Xiêm tươi, trà trái mãng cầu Xiêm, tinh dầu xả,...

Dân số:

42.120 người (2020).

Thu nhập bình quân đầu người: 34,7 triệu đồng/người/năm (2020).

Kinh tế:

Huyện có 12 km bờ biển và nằm giữa hai cửa sông Mê Kông là cửa Tiểu và cửa Đại, có nhiều tiềm năng trong phát triển kinh tế biển, đặc biệt là đánh bắt và nuôi trồng thủy sản.

Năm 2020  tốc độ tăng trưởng kinh tế  đạt 7,15%. Cơ cấu kinh tế: nông nghiệp chiếm 76%, công nghiệp xây dựng chiếm 10,95%, dịch vụ thương mại 13,05%.

Kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp và đánh bắt, nuôi trồng thuỷ sản. Rừng phòng hộ ven biển 957,5 ha. Diện tích nuôi trồng thủy sản 7,110 ha, sản lượng 27,855 tấn. Có 2.986 ha dừa đang cho trái ổn định; có 2.716 ha sả, sản lượng 42.160 tấn. Cây ăn trái 1.120 ha, sản lượng trên 21.950 tấn.

Giáo dục:

Cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học được tăng cường đầu tư xây dựng, trang bị theo hướng kiên cố hóa, hiện đại hóa. Năm 2020, trên địa bàn huyện có  17 trường học:

- Giáo dục mầm non có 06 trường.

- Giáo dục phổ thông có 11 trường: 05 trường tiểu học, 01 trường tiểu học và trung học cơ sở, 02 trường trung học cơ sở, 03 trường trung học cơ sở và trung học phổ thông.

Toàn huyện có 08 trường đạt chuẩn quốc gia và 03 trường đạt chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục. Có 6/6 xã đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở và xóa mù chữ.

Y tế:

Huyện có 01 trung tâm y tế huyện và 6/6 xã có trạm y tế (các trạm y tế xã đều đạt chuẩn Quốc gia về Y tế xã). Do là huyện đảo, nên người dân địa phương được hỗ trợ 100% bảo hiểm y tế. Việc chăm sóc sức khỏe, chữa trị bệnh cho nhân dân được thực hiện tốt.

Giao thông:

Huyện có duy nhất tuyến Đường tỉnh 877B, dài 35,3 km chạy dài từ tây sang đông, được láng nhựa theo tiêu chuẩn cấp VI đồng bằng. Các tuyến đường huyện, đường giao thông nông thôn được đầu tư, nâng cấp. Các bến phà, đò phân bổ đều trên địa bàn với 3 bến phà chung và 18 bến đò. Bến phà Tân Long được đầu tư ponton 60 tấn, với tổng kinh phí 50 tỷ đồng.

Huyện có hệ thống sông, kênh/kinh, rạch chằng chịt thuận lợi cho giao thông đường thủy.

Văn hóa:

Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” thực hiện có hiệu quả. Qua bình xét cuối năm 2020, huyện đạt tỷ lệ 95% số hộ đạt danh hiệu Gia đình văn hóa; có 06/06 xã đạt danh hiệu Xã văn hóa; 35/35 ấp đạt danh hiệu Ấp văn hóa, 36 con đường văn hóa, 06 cơ sở thờ tự văn hóa.

Các thiết chế văn hóa được đầu tư nâng cấp, xây dựng. Huyện có 1 Trung tâm Văn hóa - Thể thao, 06/06 Nhà văn hóa xã, 35/35 ấp có trụ sở kiêm điểm sinh hoạt văn hóa,  22 Nhà văn hóa ấp, liên ấp; khoảng 30 câu lạc bộ, đội, nhóm sở thích văn hóa - văn nghệ, gia đình hạnh phúc phát triển bền vững - Đội phòng, chống bạo lực gia đình, 01 di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia (Lũy Pháo Đài).

Du lịch:

Huyện có tiềm năng phát triển du lịch sinh thái ở khu vực Cồn Cống và Cồn Ngang. Ngoài ra, huyện còn có Khu sinh thái Làng Yến với diện tích 99,953 m2, tổng mức đầu tư trên 150 tỷ đồng với nhiều trò chơi hấp dẫn kết hợp với khu di tích lịch sử Lũy Pháo Đài Trương Định được công nhận Di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia sẽ tạo thêm sức hấp dẫn cho du khách.

Thể thao:

Số người tập luyện thể dục thể thao của huyện đạt 30%; số hộ tập luyện thể dục thể thao thường xuyên đạt 25%. Huyện có trung tâm văn hóa - thể thao và nhà văn hóa các xã được sử dụng làm nơi tập luyện và thi đấu thể thao; có 01 lớp năng khiếu võ cổ truyền và các câu lạc bộ bóng đá, bóng chuyền, cầu lông, cờ tướng, dưỡng sinh,...