Bước tới nội dung

Quốc Công Phạm Đăng Hưng

Từ Gò Công Wiki

Phạm-Đăng-Hưng sanh ngày 24-9-1864 năm Ất-dậu, con của ông Phạm-Đăng-Long và Bà Phạm-thị-Tánh, công- thần dưới triều Nhà Nguyễn, người huyện Tân-hòa, làng Tân-niên-đông (Gò-công) thuộc tỉnh Gia-định Nam-phần Việt-Nam.

Ông là người thông-minh đỉnh-ngộ, tánh tình cương- trực, ăn nói thẳng-thắng, có nhiều ý chí lớn lao, ra đời gặp lúc quốc biến loạn ly, nhưng lúc nào ông cũng trau giồi kinh sử rèn luyện võ văn, hầu trở nên người hữu dụng của đất nước sau này, ông không thối chí ngã lòng trước cảnh quốc phá gia vong, giữa Tây-sơn và Nguyễn Ánh tranh hùng, gây cảnh núi xương sông máu trên đất nước.

Một lòng cương-quyết nuôi chí lập thân chờ cơ hội thực thi nguyện vọng, năm Bính-thìn (1784) Ông thi đổ tam- trường, được triều đình sơ bổ làm Lễ-sinh ở Phủ, với một chức vụ nhỏ nhen nhưng ông rất thận trọng lo tròn phận sự. Nhà vua thấy ông là người bặt-thiệp có nhiều khả-năng hết lòng lo việc nước, bèn thăng lên làm Lại bộ Tham trị, thường theo chân chúa Nguyễn-Phúc-Ánh đi dẹp giặc, lại thêm có nhiều mưu lược, giúp cho vua thắng được nhiều trận lớn lao, lúc bấy giờ nhà vua hết lòng tin dùng trọng đãi cho là một bậc nhân tài của đức Khổng-tước nguyên, quần thần văn võ đều kính nể đến oai đức của ông, mỗi khi gặp sự khó khăn nào đều hỏi ý-kiến ông, và được giải thích thỏa đáng.

Năm Gia-Long thứ 4 (1805) kiêm Chưởng trưởng-đà-sự, từ đây thinh giá ông càng lên cao, gánh vác những việc quan-trọng của nhà vua giao phó, ông tận dụng hết khả năng khai-thác làm những điều lợi ích cho chúa Nguyễn. Năm Gia-Long thứ 12 (1813), ông bước thêm một nấc thang nữa, được thăng lên Lễ-bộ Thượng-thơ lo việc trào chánh.

Mùa đông (1815) ông lại được kiêm thêm Quân-khâm Thiên-giám. Năm Gia-Long thứ 16, ông bèn dâng sớ thỉnh cầu nhà vua xin lập Xã-thương, tức là kho chứa lúa ở các xã trong nước phòng khi trời hạn hán, hoặc bị thủy tai mùa màng thất bát, thì lúc ấy lúa trong kho có sẵn chẩn cấp cho dân chúng tránh nạn đói kém, việc làm trên đây chứng tỏ ông hết lòng lo cho dân cho nước, một đời chỉ biết hy sinh và phụng sự không nghĩ gì đến việc riêng tư, tiếng tăm của

ông càng vang rộng khắp trong thần dân khiến ai nấy đều khen ngợi và sẵn sàng đứng sau lưng ông để ủng hộ.

Năm Gia-Long thứ 18 (1819), vua Gia-Long bịnh nặng, ông phụng thảo di chiếu, cùng Lê-Văn-Duyệt đồng thọ cố- mạng.

Sang triều Minh-Mạng, thứ 2 (1821) sung Quốc-sử quán Phó Tổng-tài. Danh vọng ông càng lên cao bấy nhiêu thì trái lại gặp phải lắm chông gai, có một số quần thần tham quan ô lại, vạch lá tìm sâu, cốt để làm hạ uy-tín và thanh-danh của Ông, tâu với nhà vua phát giác việc Bộ Lễ mạo-tặng bằng sắc, ông bị giáng 2 cấp điệu, rồi bổ vào Hàn-lâm-Viện, Quốc-sử quán tổng tài như cũ, lại kiêm lãnh ấn vụ bộ Lại, sung Khâm tu Ngọc phổ Toản tu.

Minh-Mạng năm thứ 5 (1824), ông được triều-đình xét qua công-trạng của ông đã giúp vua Gia-Long thống-nhứt đất nước, sắc chỉ phục chức Lễ-bộ Thương-thơ như trước. Triều-đại nào cũng có rất nhiều gian nịnh, lập phe kết đảng hãm hại trung thần, vì những bọn ấy làm không được việc chỉ biết nịnh bợ lòn cúi, thấy kẻ khác tài giỏi hơn mình thì kiếm cớ bươi móc quật ngã uy tín của đối phương để dễ bề thao túng, làm vua mà không sáng suốt hại biết bao trung thần vong mạng, chính trường hợp của tướng Đỗ-Thành- Nhân trước kia, bị bọn xàm thần sợ đến uy danh của người, kiếm điều tâu rỗi làm cho nhà vua nghi ngờ nghe theo giết mất một đấng anh-hùng của dân-tộc, lịch-sử đã chứng- minh điều đó.

Đến đời Minh-Mạng cũng dẫm theo con đường cũ của phụ vương, bắt tội biết bao người trung liệt một cách oan uổng, chính trường hợp của Tả quân Lê-Văn-Duyệt chẳng hạn. Trở lại vấn đề công-thần Phạm-Đăng-Hưng, chúng tôi cần vạch rõ những việc làm đáng tiếc của nhà vua, sau khi giác ngộ thì chuyện đã lỡ rồi.

Năm 1825 mùa hạ vua Minh-Mạng ngự giá ở Quảng- nam giao cho ông giữ kinh thành, tức là Đế-đô-Huế, tỉnh Thừa-Thiên bây giờ. Xuyên qua cuộc đời của ông thật lắm nổi thăng trầm trên bước đường hoan lộ, nhưng vẫn giữ một lòng trọn đạo vua tôi, thủy chung cùng non nước, đức tánh của ông thể hiện qua những việc làm hơn là nói, lúc nào cũng lo tròn nhiệm vụ của nhà vua giao phó.

Mùa hạ năm Ất-dậu (1825) ông thọ bệnh mất vào năm

61 tuổi, được thăng chức Hàm-vinh-Lộc Đại-Phu, Trụ-quốc Hiệp-biện Đại-học-sĩ, thụy là Trung-nhã.

Nhà vua chiếu chỉ cho tẩn liệm theo nghi lễ của triều- đình, linh cữu đưa về Gò-công an táng tại giồng Sơn-qui là nơi quê hương của ông.

Tương truyền ghe chở linh cữu của ông đi đường biển khi về gần tới Cần-giờ, địa phận Gia-định, gặp phải trận cuồng-phong sóng to gió lớn, đoàn quan quân tiễn đưa hộ tống linh cữu hết sức lo-ngại sợ thuyền kia phải đắm. Trong lúc nguy cấp bỗng đâu nhờ có hai con cá-ông nổi lên đỡ thuyền đưa vô tới bờ được bình yên vô sự, ai nấy đều cho đó là một việc hiển linh hi-hữu. (Dưới triều Gia Long, nghe đâu thuyền chúa bị lâm nạn ngoài khơi Cần-giờ cũng được

cá-ông cứu, đỡ thuyền thoát khỏi cảnh hiểm nguy. Sau ngày thống-nhứt san hà vua Gia-Long nhớ ơn cứu tử phong chức cho cá ông là Đại-càng Quốc-gia Nam-hải và ra lịnh lập miếu thờ theo các cửa biển từ Thuận-an vô tới trong Nam, thành ra cá-ông được giới ngư phủ kính trọng).

Tự-Đức năm 2 (1849) ông được gia tặng Đặc tấn vinh- lộc Đại phu Thái-bảo, Cần chánh điện đại học sĩ, tước Đức Quốc-công được thờ ở miếu Trung-hưng Công-thần và liệt tự vào đền Hiền-lương.

Phạm-đăng-Hưng là thân sinh bà Từ-Dũ, tức Nghi- Thiên-Chương Hoàng-hậu, vợ của vua Thiệu-Trị, mẹ vua Tự- Đức.

Trên đây là những phần đại-cương về ông Phạm-đăng- Hưng mà chúng tôi biên soạn hiến quí bạn đọc để biết qua phần nào tiểu sử vị công-thần dưới triều Nguyễn, một đời chỉ biết phụng sự và hy-sinh cho đất nước, đến khi mãn phần không một tai tiếng gì, được người đời tặng cho là liêm-khiết thanh-cần, lưu danh muôn-thuở.

Tại Gò-công ngày nay có đền thờ kiếng họ Phạm tại Giồng Sơn Qui, và ông còn rất nhiều thân-nhân ở tại đây.

Một chuyện xảy ra rất ly kỳ là tấm mộ bia của ngài, do cụ Phan thanh-Giản Thượng-thơ bộ lễ và Trương-quốc-Dụng bộ-Hình thừa-lịnh vua Tự-Đức phụng soạn bia văn 1858, được chở bằng đường biển từ Huế đem vô Gò-công đặt trước mộ ngài, chẳng may nửa đường bị Pháp quân tịch thâu đem về làm mộ bia cho Đại-úy Barbé, người bị Quản Định phục kích giết chết tại góc đường Trần-quý-Cáp và Lê-

Quý-Đôn, Sàigòn, đêm 7 tháng 12 năm 1860. Tấm bia khắc chồng hai thứ chữ này được Pháp dựng tại đất Thạnh Tây, đường Mạc-đỉnh-Chi ngày nay.

Đây là sự vô tình hay cố ý mà Chánh-phủ Tân-trào làm như vậy, điều này xin nhường cho bạn đọc phân tách kỹ càng hơn.

Lăng Hoàng gia Phạm-quốc-công tại giồng Sơn-Qui.