Bước tới nội dung

Đội Tấn

Từ Gò Công Wiki
Phiên bản vào lúc 01:04, ngày 17 tháng 10 năm 2025 của Admin (thảo luận | đóng góp) (Trang mới: “Sau vụ thất thủ Gò-công, Trương-Công-Định về lập lại căn-cứ ở Lý-nhơn, giữa một hòn đảo đất phù-sa, cây cối và dừa nước dày đặc phủ kín. Vùng này hoang vu và đầy thú dữ tương tự như Rừng sát, khi nước lớn thì chỉ còn một phần đất nhỏ nhô lên trên mặt nước mà thôi. Ông hy vọng quân Pháp không bén mảng đến được và ông sẽ có thời giờ củng cố lại…”)
(khác) ← Phiên bản cũ | Phiên bản mới nhất (khác) | Phiên bản mới → (khác)

Sau vụ thất thủ Gò-công, Trương-Công-Định về lập lại căn-cứ ở Lý-nhơn, giữa một hòn đảo đất phù-sa, cây cối và dừa nước dày đặc phủ kín. Vùng này hoang vu và đầy thú dữ tương tự như Rừng sát, khi nước lớn thì chỉ còn một phần đất nhỏ nhô lên trên mặt nước mà thôi. Ông hy vọng quân Pháp không bén mảng đến được và ông sẽ có thời giờ củng cố lại thực lực.

Nhưng quân Pháp không bao giờ quên Trương-Công- Định, con người đã làm cho chúng quên ăn mất ngủ. Sự an toàn của chế-độ đô-hộ Pháp, đòi hỏi phải trừ diệt cho được người đã thề nguyền chết sống chống xâm lăng. Chúng thấy một cuộc huy động lực-lượng lớn lao như trong trận Gò- công không cần thiết, mà ngược lại còn tăng sự quan trọng của Trương-Công-Định, nên một mặt chúng giao cho vài sĩ- quan cương quyết của chúng canh chừng ông cẩn mật và đem binh chinh tiễu cầm chừng để phá nghĩa-quân không cho lúc nào được an nghỉ. Cũng do Việt-gian mật báo, quân Pháp chỉ-huy bởi Thiếu-tá Gougeard và Béhic, kéo đến đột kích ngày 25-9-1863 tịch thu một số súng đạn quan trọng mà ông đã tích trữ được. Nhưng ông trốn thoát được trên một chiếc ghe ngụy trang len lỏi giữa các vùng sình lầy. Từ lúc ấy ông hoạt động bí mật, xuất hiện bất thần khắp nơi ban lịnh mang tay hay khẩu lệnh đến mọi đoàn nghĩa-quân mà ông là linh-hồn.

Mặt khác đã đến lúc thực-dân thi hành chánh-sách dùng người Việt chống người Việt được, vì thời-gian trôi qua Nam- triều cứ im lìm trong sự bất lực, dân chúng dần dần bị chiến tranh tàn phá. Lâm vào cảnh nghèo đói tuyệt-vọng, trong khi đó nhiều kẻ chạy về hàng ngũ địch. Những ông Thông, ông Phán, thầy Cai ngất-ngưỡng trên uy-quyền và tiền bạc, tối sâm-banh sáng sữa bò khiến nhiều kẻ chạy theo danh lợi thờ phụng chủ mới.

Một trong những kẻ thù Trương-Công-Định là Đội-Tấn tên thật là Huỳnh-Công-Tấn. Vốn là một chiến-sĩ của ông trong hàng ngũ kháng Pháp đầu tiên, hắn bị ông trừng phạt vì phạm kỷ luật. Không ăn-năn Đội-Tấn lại đâm ra thù oán ông, rồi vì cạm bẫy lợi-danh y bỏ hàng ngũ qua đầu quân Pháp vào năm 1862, Tấn phụng sự quân địch rất đắc lực, giúp Thiếu-tá Gougeard diệt-trừ các người chống lại Pháp ở Tân-an và Gò-công. Trong trận đánh chiếm Gò-công hắn được Thiếu-tá hải-quân Guys, cai-quản chiếc thuyền Alarme chú ý vì đã tỏ ra hăng hái và gan dạ.

THÀNH TÍCH CỦA ĐỘI-TẤN

Đội-Tấn quả là một người bạo-dạn và dũng cảm khi trong trận đánh ở Gò-công kỳ hai, chỉ một mình với một thanh gươm, hắn đã cố thủ được một đầu cầu chật hẹp chống lại nghĩa-quân đông-đảo, cho đến khi y bị một giàn bắn đá bắn một hòn đá trúng bể đầu gối, vừa quỵ xuống thì được vài Pháp quân đến cứu kịp và chở về chữa trị. Lương-y Pháp muốn cưa chân để cứu mạng cho hắn nhưng hắn không chịu, hắn tự chữa lấy và thời may lành bệnh một cách lạ lùng, để rồi theo đuổi việc phục thù Trương-công- Định.

Vốn hiểu biết tánh tình và thói quen của cựu chủ tướng, Đội-Tấn dự đoán Trương-Công không đi đâu xa hơn là quanh vùng Gò-công, nơi mà bà con thân quyến của ông rất đông và các gia đình dòng họ Phạm, bà con bên ngoại nhà vua, vừa đông vừa giàu lại có thế lực, giúp ông ẩn náu chắc chắn và tiếp tay một cách trung-thành.

Thời thế biến chuyển có lợi cho nhà cầm quyền Pháp khi Phó Đề-đốc Lagrandière, người thay thế Đô-đốc Bonard, cho thi hành một biện-pháp khiến những kẻ lạc lòng không lập trường lần hồi ngã về theo bọn giặc xâm-lăng. Bấy giờ tại Gò-công vừa trải qua một năm hạn hán, mạ gieo đều bị cháy cả, nhiều làng vì loạn lạc bị cướp giựt, dân chúng đói kém không tiền mua lúa giống làm mùa khác. Đô-đốc Lagrandière cho nông-dân và tá-điền vay mượn với lời hứa hẹn sẽ trả vốn sau mùa gặt hái. Vài hương chức, một mặt cảm động vì được mượn tiền không lãi để làm mùa nuôi sống, phần khác oán hờn quân kháng chiến bắt buộc họ đóng góp để nuôi binh, đã mật báo cho Đội-Tấn biết Trương-công-Định về ẩn náu tại Kiểng-phước, nơi « Đám-lá- tối-trời » ở hữu-ngạn sông Soi-rạp.

NGÀY CUỐI CÙNG CỦA VỊ ANH-HÙNG KHÁNG- CHIẾN : TRƯƠNG-CÔNG-ĐỊNH TRẢ NỢ NÚI SÔNG

Thì quả thật trong ngôi nhà nhỏ, trên đám đất cỏ cây rậm rạp, chung quanh toàn là dừa nước phủ che, trong một dãy nhà lá lụp-sụp, Trương-Công đang tạm náu với 25 nghĩa sĩ trung-thành. Đêm 19 rạng 20 tháng 8 năm 1864, Đội Tấn đem quân đến bao vây và trời vừa rựng sáng sương mù chưa tan, liền ồ-ạt tấn-công. Các nghĩa quân của Trương- Công quyết tử cầm chân quân lính khố xanh cho chủ tướng thoát nguy. Trương-Công ở giữa đám bộ hạ thân tín thoát ra khỏi ngôi nhà, vung gươm chặt bay nón của một lính khố xanh và quất ngược gươm lại làm rớt súng của một kẻ thù khác, Trương-Công xách gươm lao mình tới gần vùng bụi rậm để tránh né, chỉ còn mấy bước nữa thôi thì rủi thay bị trúng đạn của quân thù nhằm chỗ nhược ngã xuống chết. (Có sách nói bị chém trúng chết, có chỗ nói ông tử-tiết, sách vở không thống nhứt, xin bạn đọc nghiệm xét coi thuyết nào đúng).

Lúc bấy giờ ông mới 44 tuổi. Thi hài Trương-Công được chở về tỉnh lỵ đặt tại nhà lồng chợ ba ngày để thị oai. Các vị bô lão thuật lại thấy Trương-Công đầu bịt khăn dầu rìu đỏ, mặc áo song khai nỉ màu xanh đậm, quần trắng bỏ ống vào trong võ hài. Ba ngày sau, Pháp truyền mời phu nhơn là Trần-thị-Sanh tới vỗ về cho lãnh thây về chôn cất. Bữa cất đám, lúc gần động quan, không biết vì phương diện chánh trị để thâu phục nhân tâm trọng vọng võ tướng. Trung-úy Guys bổn thân đem 1.000 quan tiền tới điếu tang và cho một toán lính Pháp Ấn, mang súng đến hầu đưa linh cữu tận huyệt.

Năm 1864 sau khi Trương-công-Định qui thần, mộ nầy làm bằng đá ong và tô hồ ô-dước (lúc bây giờ chưa có Ciment) tới nay trên 100 năm, vẫn còn chắc cứng. Lúc làm mộ trên mộ bia bằng đá trắng Quảng Nam, để nguyên chức tước của Trương-Công thọ phong : « Đại-Nam Bình-Tây Đại- Tướng Quân, Trương-công-Định chi mộ ». Nơi hai cột trụ trước mộ bia, một đôi liễn kỷ-niệm lòng trung nghĩa của Ngài :

Sơn hà thâu chánh khí

Nhựt nguyệt chiếu đơn tâm

Nghĩa là : Chánh khí của Ngài về với núi sông mãi mãi. Lòng son của Ngài, hai vừng Nhựt Nguyệt soi sáng bất diệt.

Cụ Đồ-Chiểu trước kia làm cố-vấn cho ông, rất cảm động khi hay tin ông chết và có làm 12 bài thơ điếu Trương- Công như sau :

I

Trong Nam tên họ nổi như cồn, Mấy trận Gò-công nức tiếng đồn ; Dấu đạn hỡi rêm tàu bạch quỉ,

Hơi gươm thêm rạng thể huỳnh môn ; Ngọn cờ ứng nghĩa trời chưa bẻ,

Quả ấn Bình Tây đất vội chôn ; Nỡ khiến anh-hùng rơi giọt lụy, Lâm-râm ba chữ điếu trung hồn.

II

Trung-hồn nay đã tách theo thần, Sáu tỉnh còn roi dấu Trướng-quân ; Mực rở lãnh binh mờ mắt giặc,

Son bằng thấm nghĩa thấm lòng dân ; Giúp đời dốc trọn ơn Nam-tử,

Ngay chúa nào lo tiếng nghịch thần ; ốc ngỡ tướng tinh rày tỏ mặt,

giúp xong nhà nước buổi gian truân.

III

Gian-truân kể xiết bấy nhiêu lần, Vì nước đành trao một tấm thân ; Nghe chốn Lý-nhơn người sảng sốt,

Nhìn cồn Đa-phước cảnh bâng-khuâng ; Bát cơm Kê-lữ chi sờn buổi,

Mảnh áo Mông-nhung chẳng nệ phần ; Chí dốc ra tay nâng vạc ngã,

Trước sau cho trọn nghĩa quân-thần.

IV

Quân-thần còn gánh nặng hai vai, Lỡ dở công trình hệ bởi ai ?

Trăm đám mộ binh vầy lớn nhỏ, Một gò cô lũy chống hôm mai,

Lương tiền nhà ruộng ba mùa trước, Thuốc đạn ghe buôn bốn biển ngoài ; May rủi phải chăng trời cũng biết,

Một tay chống chỏi mấy năm dài.

V

Năm dài những mảng ngóng tin vua, Nhín nhục thầm toan lẽ đặng thua ; U, Kế năm hàng còn chỗ đoái,

Ngô Tôn trăm chước đợi ngày đua ; Bày lòng thần-tử vài hàng sớ,

Giữ mối giang sơn mấy điệu bùa ; Phải đặng tuổi trời cho mượn số, Cuộc nầy ngay vạy có phân bua.

VI

Phân bua trời đất biết cho lòng, Công việc đâu đâu cũng muốn xong,

Cám nỗi nhà nghiêng mong chống cột, Nài bao bóng xế luống day đồng ; Đồng nai, Chợ Mỹ lo nhiều phía,

Bến nghé, Sài-gòn kể mấy đông ; Dẫu biết dụng binh nhờ đất hiểm, Chẳng đành xa bỏ đất Gò công.

VII

Gò-công binh giáp ngó chàng ràng, Đoái bắc trông nam luống thở-than ; Trên trại đồn đàng hoa khóc chủ, Dưới vàm Bao-ngược sống kêu oan ;

Mây giăng Truông Cóc đường quân vắng,

Trăng xế Gò Rùa tiếng đẩu tan ; Mấy dặm non sông đều xửng-vững, Nạn dân ách nước dễ ai toan.

VIII

Ai toan cho thấu máy trời sâu, Sự thế ôi thôi đã lắc đầu ;

Giặc cỏ om-sòm mưa lại nhóm, Binh sương lác-đác nắng liền thâu ; Cờ-lau đã xếp trên Giồng Cát, Tiếng sấm còn rền dưới cửa Khâu ; Cảnh ấy những mơ người ấy lại, Hội nầy nào thấy Tướng-quân đâu.

IX

Tướng-quân đâu hỡi ! thấu hay chăng ? Sáu ải cơ-đồ nửa để ngăn ;

Cám nỗi kiến ong ra sức dẹp, Quản bao sâu mọt chịu lời nhăng ; Đá kêu rêu mọc bia Dương Nghiệp, Cỏ úa hoa tàn mả Lý-Lăng ;

Thôi vậy thì vầy thôi cũng vậy, Anh-hùng đến thế dễ ai giằng.

X

Dễ ai giằng thúc lối sau này, Trời hỡi chưa cho vội đánh Tây ; Thà buổi sa-trường da ngựa bọc,

Khỏi nơi Đạo-chích tiếng muông rầy ; Lục lâm mấy chặn hoa sầu bạn,

Thủy-hử vì đâu nhạn lẻ bầy ;

Hay vậy cõi Biên dừng vó ký, Náu nương chờ vận có đâu vầy.

XI

Đâu vầy sấm chớp nổ thình-lình, Gió hạc thêm buồn mấy đạo binh,

Ngựa trạm xăng-văng miền Bắc khuyết, Xe nhung ngơ-ngẩn cõi Tây-ninh ;

Bài văn phá Lỗ cờ chưa tế,

Tấm bảng phong-thần gió vội kinh, Trong cuộc còn nhiều trang Tướng Tá, Lời nguyền trung-nghĩa há làm thinh.

XII

Làm thinh hổ đứng giữa hai ngôi, Nếm mật từ đây khó nỗi ngồi ; Mũi giáo Thi-Toàn đừng để sét,

Lưỡi gươm Dự-Nhượng phải toan dồi ; Đánh Kim chi sá thằng Lưu-Dự,

Giúp Tống xin phò gã Nhạc-Lôi ; Ủng-hộ nước Nam về một mối,

Ngàm năm miếu tặng rạng công tôi.

Mười hai bài thơ của cụ Đồ-Chiểu, nói lên tinh thần thượng võ của Trương-Công, làm cho người Pháp đem lòng kính nể. Ông không lùi trước những sự hiểm nguy, quyết tâm hy sinh phụng-sự cho đất nước trọn nghĩa quân vương, nêu cao khí tiết giống Tiên Rồng bốn ngàn năm lịch sử, thế nhơn đều xưng tụng công nghiệp của người anh hùng muôn thuở.

Cái chết của ông là cái chết vinh diệu cho non sông tổ- quốc.

Sau khi Đội Tấn dẫn lính đánh cứ điểm cuối cùng của ông tại đám lá tối trời, hạ được ông rồi, quan thầy thăng cho Đội Tấn chức Quản để thưởng công, qua mấy năm sau Tấn dẫn Pháp tảo thanh các mật khu của nghĩa-quân tại Đồng Tháp Mười và mấy tỉnh kế cận ở miền Tây, lập được nhiều công trận với chủ, được phong chức lãnh binh do nghị định Thống-đốc Nam-kỳ ngày 5-11-1867.

Từ đấy lãnh binh Huỳnh-Công-Tấn tha hồ làm mưa làm gió, giết chóc lương dân vô tội, sống trên xương máu của người đồng loại, chẳng biết tiếc thương, lịch sử đã chứng minh điều đó.

Con của lãnh binh Tấn là cậu hai Miêng về sau cũng được người Pháp cho hưởng nhiều quyền lợi, chúng tôi sẽ nói giai-thoại của cậu hai Miêng trong phần thứ tư tác phẩm này.

Thế là sự nghiệp kháng chiến của người anh hùng đến đây đã chấm dứt, nhưng lịch sử và lòng người dân Việt muôn đời còn ghi tạc công-đức và tên tuổi của người còn sống mãi với sử xanh.

Mấy năm về sau, nhiều đám kháng-chiến nổi lên chống Pháp, người chủ-trương đều là thuộc hạ cũ của ngài. Pháp giận, tới mộ xem, điều tra hàng chữ ở mộ bia, thông-dịch viên cắt nghĩa thế nào không rõ mà Pháp sai lính tới bằm nát hàng chữ ấy, đòi Phu-nhơn tới tra hạch, Pháp vẫn biết Phu-nhơn tên Trần-thị-Sanh vốn là chị em cô cậu với Đức

Thái-hậu Từ-Dũ, nên lấy lễ khuyến dụ dọ hỏi tông-tích của tì-tướng Trương-công còn ẩn núp hầu lùng bắt. Phu nhơn nói không biết. Rốt cuộc, cuộc thẩm-vấn không đem lại hiệu quả, Pháp phạt vạ 10.000 quan tiền kẽm, bằng 10 lần số tiền của trung-Úy Guys đi điếu lúc trước. Chúng cho rằng từ năm 1862, Nam-triều về Pháp giao-hảo lập hòa-ước rồi ngày 5 tháng 6 năm 1862 thì lẽ nào vua Tự-Đức chống Pháp mà phong chức Bình-Tây cho Trương-công. Ấy chẳng qua Trương-công thừa cơ hội, tạo ra để cầm đầu quân phiến-loạn, giả vờ chống Pháp, bốc lột nhơn-dân, khuấy rối cuộc trị an của Pháp sắp đặt.

Lòng nghi kỵ tư thù ích kỷ của Pháp quân, chúng bèn ra chỉ thị cấm nhặt dân chúng Gò công không đặng bén mảng đến mộ Trương-công-Định trong thời kỳ chúng còn đặt nền thống trị ở đây.