Kênh/Kinh Salicetti
Đọc theo Tiếng Việt: Xa-li-xét-ti
Địa danh được cấu tạo theo phương thức: Công trình xây dựng (Kênh/Kinh) + Tên người bằng Tiếng Pháp (Salicetti).
Kênh/kinh được đào năm 1869 trong khuôn khổ của chương trình khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Kênh/kinh được đặt tên Salicetti. Đây là tên của Chánh tham biện hạt Tham biện Gò Công. Năm 1870, Salicetti làm Chánh tham biện hạt Tham biện Tân An. Năm 1872, ông ta là Chánh tham biện hạt Tham biện Vĩnh Long. Cũng trong năm này, trong khi đàn áp cuộc khởi nghĩa của nhân dân huyện Vũng Liêm (tỉnh Vĩnh Long), Salicetti đã bị nghĩa quân trừng trị. Sau đó, để trả thù cho Salicetti, vâng lệnh của chính quyền thực dân Pháp, tên đại Việt gian Trần Bá Lộc đã chỉ huy quân lính tiến hành cuộc thảm sát đẫm máu đối với nghĩa quân và nhân dân huyện Vũng Liêm. QuyểnĐịa phương chí tỉnh Vĩnh Long năm 1911cho biết:
“Năm 1872, được sự xúi giục của một số quan lại ở Huế, vốn chỉ thuần phục chính quyền Pháp ở ngoài mặt, nhiều băng nhóm võ trang đã rải khắp Trà Vinh, đặc biệt là những vùng xung quanh chợ lớn Vũng Liêm. Bọn chúng đụng đâu cướp đó trên đường. Thanh tra Salicetti - đại úy thủy quân lục chiến - đã khinh suất đi kiểm tra vùng này với chỉ vài lính cận vệ. Kết cuộc, viên đại úy này đã bị một nhóm phiến quân phục kích và giết chết. Viên Đốc phủ Cái Bè là ông Trần Bá Lộc, nổi tiếng bởi sự sáng trí, lòng trung thành và dũng cảm đối với sự nghiệp của chúng ta, đã nhận lãnh nhiệm vụ trừng trị những kẻ sát nhân. Bằng một cuộc hành quân chớp nhoáng, ông ta đã tấn công bọn chúng ở cánh đồng Láng Thé và buộc bọn chúng phải tháo chạy sau một trận giao tranh đẫm máu kéo dài đến tận một ngày. Sau đó, cuộc bố ráp của ông Trần Bá Lộc diễn ra thật khủng khiếp. Cuối cùng, thi thể của viên đại úy bất hạnh cũng được tìm thấy trong một bụi cây và được Trần Bá Lộc đưa về Vĩnh Long để mai táng”. Do đó, cần thiết phải đổi tên kênh/kinh Salicetti, vì Salicetti đã từng đàn áp khốc liệt các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta.
Kênh/kinh này nối liền rạch Gò Công với rạch Cửa Khâu, một nhánh của sông Cửa Tiểu. Kênh/kinh có chiều dài 6.500 m, rộng 20 m. Theo quyểnĐịa phương chí tỉnh Gò Công năm 1936'(Monographie de la province de Gocong - 1936),'khi thủy triều lên cao ghe thuyền có trọng tải vừa có thể đi lại được trên kênh/kinh; đồng thời, làm tăng độ phì nhiêu cho các làng Hòa Nghị (nay là xã Bình Nghị, huyện Gò Công Đông), Dương Phước (nay là xã Phước Trung, huyện Gò Công Đông) và Tăng Hòa (nay là xã Tăng Hòa, huyện Gò Công Đông).
Hiện tại, hai kênh/kinh Champeaux và Salisetti nối liền nhau và là một đoạn trong trục dẫn nước chính của vùng ngọt hóa Gò Công. Tuyến kênh/kinh chạy song song với Đường tỉnh 862, nối rạch Vàm Giồng ở thị xã Gò Công với xã Tân Thành của huyện Gò Công Đông.
* Địa hình thiên nhiên, thực vật:
'1.'Ấp Bồ Đề
Địa danh được cấu tạo theo phương thức: Tổ chức dân cư (Ấp) + Thực vật (Cây bồ đề: là cây thân gỗ lớn, cao từ 20 - 30 m; được trồng để tạo bóng mát, làm cây kiểng/cảnh bonsai; thanh lọc không khí, bảo vệ môi trường; gỗ được chế tác thành đồ thủ công mỹ nghệ, đồ nội thất và đồ gỗ gia dụng, nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất giấy; nhựa cây được sử dụng trong ngành công nghiệp nước hoa và chiết xuất thành tinh dầu; theo Y học cổ truyền, cây bồ đề là loại thảo dược quý, có tác dụng an thần, giảm đau, lỡ loét ngoài da, hen suyễn, tiêu chảy, tiểu đường,… Đây là cây có ý nghĩa thiêng liêng trong Phật giáo).
Ấp Bồ Đề thuộc xã Kiểng Phước, huyện Gò Công Đông, là tổ chức dân cư mà xưa kia nơi đây có nhiều cây bồ đề hoặc có cây bồ đề to.
Ấp Bồ Đề đông giáp ấp Xóm Tựu, cùng xã, tây giáp ấp Xóm Gồng, xã Tân Đông, bắc giáp ấp Xóm Đình, cùng xã, nam giáp ấp Chợ Bế, xã Bình Ân; diện tích tự nhiên 381 ha; dân số (năm 2019): 1.405 người, nam 675, nữ 730; được công nhận ấp văn hóa.
