Cầu Quan
Cầu Quan là chíếc cầu quan trọng nối liền hai bộ phận Nam Bắc của nội thị Gò Công. Nó ở ngay một vị trí mà tới ngày nay không ai tưởng rằng chỗ nầy phải có cây cầu và là cây cầu quan trọng và đẹp nhất thời bấy giờ.
Lùi về bên mặt Nam phần dân cư nó nối một con đường lúc đó gần như là con đường ven. Từ Miếu Bà theo con đường đi lên phía Bắc bên trái đã có nhà phố, nhà máy xay lúa, nhưng bên phải còn là ruộng cho tới đầu các năm 1950, các thầy giáo mới đến cất nhà ở. Nhớ lại, xưa sau khi tên Huỳnh công Tấn chết (1877), gia đình có cất ngôi chùa gọi là chùa ông để thờ Quan Công nhưng cũng để thờ Lãnh Binh Tấn. Cổng chánh chùa ngó mặt qua phía sau Nhà Bà Phước. Trên 2 cột trụ có 2 câu đối bằng chữ Hán “ Độc chúc Tào vô dạ” “Đơn đao Hán hữu thiên”. Đây là 2 câu mô tả tính cách và hành động anh hùng của Quan Công, để mọi người lầm tưởng đây là chùa thờ Quan Thánh. Trong chùa có bài vị của Tấn mãi sau nầy vẫn còn. Vị trí bây giờ là khu Nhà trẻ Sơn Ca và trường học. Từ chùa qua con đường là khu Cô Nhi viện của các bà sơ người Pháp “Sœurs de Saint Paul”, dân quen gọi là Nhà Bà Phước nuôi trẻ mồ côi….Nay (2004) ngôi lầu có ghi hàng chữ Pháp trên vẫn còn trong khuôn viên trường Mẩu giáo Bình Minh.
Đối ngang qua đường Nhà Bà Phước là ngôi lầu Bungalow một loại nhà quan-cư như câu lạc bộ thời Pháp có sân tennis, năm 1942 thấy có lính Nhựt (lùn) chiếm đóng, chiều tập đánh xáp lá cà trên sân tennis. Các thời sau tòa nhà nầy làm đồn Công an. Nay tòa bungalow bị triệt hạ cất lầu cũng làm đồn Công an.
Xưa (trước 1943) đứng trên đường, giữa Bungalow và nhà Bà Phước là qua đường dọc phía Nam con kinh và qua chiếc cầu sắt là Cầu Quan đó !
Cầu có tên Tây là cầu Albert Sarraut, nhưng dân quen gọi là Cầu Quan. Cũng ngộ dân gọi cây cầu sắt phía Đông là Cầu Huyện, cầu sắt nhỏ giữa đoạn kinh là Cầu Phủ và cây cầu lớn gần chợ nầy là Cầu Quan.
Cầu bắc qua kinh Salicetti, cách vàm của kinh từ Rạch Gò Công lối 300 thước. Cầu không có mống cao dài 30 thước, rộng 5 thước lót ván ngang, thành cầu thẳng băng cao thước rưởi. Đầu thành cầu phía phải bên Nam có cột sắt ***g đèn vừa tầm người. Bên Bắc nhìn qua đầu thành cầu bên phải cũng có cột ***g đèn như thế, đối chéo. Phải chi có 4 trụ đèn thì đẹp biết bao ! Đêm có người đến châm dầu và đốt đèn soi mờ mặt cầu…
Vừa qua Cầu Quan, phía Bắc chừng trên mươi thước là có con đường ngang. Đường nầy chạy từ vàm kinh phía tây qua mặt Nam của Trường Nữ, qua Trường Nam, hai trường nầy dân gọi chung là Trường Quan, rồi chay dọc theo kinh đến tận đầu phía Bắc Cầu Phủ, quẹo trái theo hướng Bắc nhập vào đường chạy ngang Nhà thờ.
Còn bên chợ qua Cầu Quan chỉ chạy một đoạn ngắn 200 thước là tới đường cắt ngang (giờ đường Nguyễn Văn Côn) và cổng vào dinh Chánh tham biện. Dinh Chánh tham biện cất xong năm 1885 còn Cầu Quan chắc hoàn thành trước hay sau đó. Hoá ra Cầu Quan là nối khu Nam dân cư với toà nhà làm dinh quan Chánh Tham biện. Xe từ Mỹ Tho xuống qua Cầu Quan mà đến ngay dinh nầy thì rất tiện, nhưng đến các cơ sở khác thì phải quẹo trái hoặc phải thật vòng vo. Sau có con đường giữa trường Nam và trường Nữ là trục tiện lợi nhất, nhưng không có cầu nối. Bên khu Nam cũng có con đường đến mé sông. Hai đầu đường ngó nhau qua lòng kinh rộng. Thấy nhau mà phải đi vòng qua Cầu Quan như thế gần suốt 60 năm, đến năm 1943 mới được thông nối, nay (2004) là đường Trần Hưng Đạo. Trở lại con đường qua Cầu Quan đến cổng dinh Tham biện quẹo phải và nhìn thấy sân banh nhỏ (bây giờ là Trường Trung học Gò Công – Trương Định) bên phải, đi tới trước cổng Sân Vận Động Gò Công gặp con đường nhỏ (bây giờ trong khuôn viên trường) chạy nguợc hướng Nam ra gặp đường mé kinh.
Trở lại con đường trước Dinh, qua khuôn viên Dinh là đến Sân vận động bên trái đường có sân đá banh kích thước trung bình, nhưng có khán đài, có rào đúc ngăn cách sân và đường chạy chung quanh trải than đá vụn. Đường chạy đủ rộng nên Tây thường cho đua ngựa vào dịp 14-7 (Quatorze Juillet 1789, ngày phá ngục Bastille), ngày lễ “chánh chung”, Quốc khánh của Pháp hay vào dịp Tết ta. Còn sân banh nhỏ bỏ trống, nhớ năm 1942 gần Tết Tây tổ chức “kermesse” như là hội chợ đấu xảo bây giờ. Hàng đấu xảo là sản vật, nông phẩm của 40 chục làng trong tỉnh đem đến dự thi. Từ cổng sân vận động đi tới bên phải là mặt sau của trại lính “gạc” (Garde civile locale). Trại lính có mặt tiền ngó ra đường nhỏ chạy dọc bờ kinh phía Bắc. Qua trại lính là khuôn viên ngôi nhà dân sự duy nhất của cánh họ Dương Tấn bây giờ vẫn còn, bây giờ giáp trại lính cũ toàn là nhà. Bên trái kế bên sân vận động là khu nhà thờ có ngôi “Thánh đường Sacré Coeur Thánh Tâm”.
Con đường trước nhà thờ có thể đi về các làng Tân Niên Trung … sau khi qua Cầu Sơn Qui. Con đường trước dinh Chánh Tham biện vừa mô tả không sầm uất, chỉ thỉnh thoảng có xe hơi, xe kéo, xe máy (xe đạp) chạy qua và người đi bộ đi đông đúc là khi đến xem các trận đá banh ở sân vận động. Xe ngựa từ hướng Sơn Qui muốn vào chợ, khi tới nhà thờ thì quẹo trái theo đường nhỏ có thời gọi đường Hộ Mưu, vòng qua Cầu Huyện mới vào bến xe ngựa được. Xe hơi từ Sài gòn về chạy theo đường vòng sau dinh Tham biện gọi là Lộ Dương, tới ngỏ tư Nhà Đèn hoặc chạy thẳng rồi ngoẹo trái trước mặt trường Quan rồi qua cầu, hoặc tới ngã tư ngoẹo trái đến trước cửa dinh queo phải rồi qua Cầu Quan.
Xe đò nhất là xe ngựa không dám bén mảng đoạn đường từ ngã tư nhà đèn đi thẳng để quẹo qua trường Nam vì kế bên Kho Bạc (bây giờ vẫn kho bạc nhưng cất mới) là Bót lính mã tà dân gọi là phú lích. Thuở ấy có một ông cò Tây (commissaire de police) hung dữ dân gọi là Cò Le Fort, cầm roi, đội nón cối trắng đi rểu rểu. Xe ngựa chạy bậy, đậu không đúng chỗ sẽ bị phú lích dán một “ề” cò (tem) phạt ở bình phuông xe là kể như tiền chở khách ngày hôm đó không còn đủ mua cỏ lúa cho ngựa![1]
- ↑ Phan Thanh Sắc
