Bước tới nội dung

Đường Từ Dũ

Từ Gò Công Wiki

Địa danh được cấu tạo theo phương thức: Công trình xây dựng (Đường) + Họ và tên danh nhân (Từ Dũ).

Tiểu sử danh nhân:

TỪ DŨ

(1810 - 1902)

Từ Dũ/Từ Dụ tên thật là Phạm Thị Hằng, sinh năm 1810 tại giồng Sơn Quy, thôn Tân Niên Đông, tổng Hòa Bình, huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường (nay thuộc xã Long Hưng, thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang).

Năm 1824, lúc 14 tuổi, bà được tiến cung; và trở thành vợ của hoàng tử trưởng Nguyễn Phúc Miên Tông. Theo sáchĐại Nam liệt truyện, sở dĩ bà được Thuận Thiên Cao hoàng hậu, vợ thứ hai của vua Gia Long, mẹ của vua Minh Mạng, bà nội của hoàng tử trưởng Nguyễn Phúc Miên Tông (con của vua Minh Mạng), chọn làm cháu dâu là do:

- Bà “thích đọc sách, thông nghĩa lớn kinh sử, có đức hiền”; đồng thời, “có đức trang kính, giữ nết thuận tòng” và “lại thông minh nhớ lâu, hết thảy việc cũ và nghe tuyên đọc các sách, giấy tờ gì, là hiểu ngay, không đợi mở xem”.

- Bà là ái nữ của Thượng thư bộ Lễ Phạm Đăng Hưng - một đại công thần của triều Nguyễn, mà lúc bấy giờ, hoàng gia thường chọn vợ cho vua từ con gái của các vị quan lại cao cấp trong triều.

Năm 1825, khi được 15 tuổi, bà sinh con gái đầu lòng là công chúa Nguyễn Phúc Tĩnh Hảo (Diên Phước). Năm sau, bà lại sinh công chúa thứ hai là công chúa Nguyễn Phúc Uyên Ý; nhưng đến 3 tuổi thì lại mất sớm. Năm 1829, bà sinh người con thứ ba là hoàng tử, đặt tên là Nguyễn Phúc Thì, sau đổi tên thành Nguyễn Phúc Hồng Nhậm.

Năm 1841, khi hoàng tử trưởng Nguyễn Phúc Miên Tông lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Thiệu Trị, bà được phong Cung tần. Năm 1842, bà được vua Thiệu Trị cho theo hầu khi nhà vua ngự giá Bắc tuần. Do siêng năng, cẩn thận, chu đáo, bà được nhà vua tin tưởng giao cho việc giữ ấn tín và những vật quan trọng. Sau chuyến vi hành này, bà được giữ chức Thượng nghi có nhiệm vụ coi sóc Lục thường. Đó là sáu công việc hầu hạ vua ở trong cung gồm: thường quan (mão), thường y (áo), thường thực (ăn), thường mộc (tắm), thường tịch (chiếu), thường thư (sách). Năm 1843, bà được phong Thành phi. Sắc phong của nhà vua ghi: “Cung tần làm Phạm thị, văn phép vốn nếp nhà dòng dõi, phong tư như chất ngọc trắng trong, kính sửa túi khăn, khi tiềm để đã lâu tin tức tốt, đông nhiều con cháu, chốn khuê phòng đều mát mẻ gió hòa. Đoan trang nối sánh tiếng hay, chăm kính thêm dày nết tốt. Kịp khi trẫm lên ngôi báu, gây khuôn mẫu cho phong hóa buổi đầu tiên; đến nay định lại cung giai, cần nêu khen người đức hiền thêm rạng rỡ. Đã xét điển cũ, ban cho trật tôn. Nay tấn phong nàng làm Thành phi, nàng nên lấy xưng hiệu mới vẻ vang, chăm lo công việc trong khuê khổn. Kính theo khuôn phép, nhớ trong lòng chớ sai, lâu chịu ơn vinh, mãi về sau không hết”.

Năm 1846, vua Thiệu Trị cử các quan đại thần là Vũ Quân Cẩn và Tạ Quang Cự mang sách vàng đến tuyên phong bà làm Quý phi. Sắc phong ghi: “Trẫm nghĩ, nguồn gốc cây nên phong hóa, trị nước cốt ở nghiêm sửa trong nhà, triều đình ban

xuống ân vinh, trước người nhà sau mới đến người khác. Ngày tốt đã hợp, sắc phong ban ra. Nghĩ nay Thành phi Phạm thị, nghi lễ nhà dòng, đoan trang nết tốt, như ngọc trong sáng, nên khuôn hòa kính, cung giai chín bậc đứng đầu, đông nhiều con cháu, đầm ấm khí hòa. Phụng dưỡng giữ đạo trong khuê khổn, hòa vui hả dạ

cung Từ Ninh, tuổi hoa bốn chục xanh tươi, phần hưởng thụ còn nhiều phúc lớn, đức tốt sáu cung tiêu biểu, điển bao phong xứng vẽ áo thêu. Đã xét điển thường, ban cho danh tốt. Nay tấn phong nàng làm Quý phi. Nàng nên kính vâng ân mệnh, giữ đạo cung vi, để dạ chớ quên, đức hòa nhu dùng làm khuôn mẫu, hưởng phúc không chán, ơn bao vinh rộng mãi lâu dài”.

Trong thời gia trị vì từ năm 1841 - 1847, vua Thiệu Trị rất tin tưởng bà, mỗi khi thiết triều ở điện Khâm Văn, nhà vua đều cho phép bà được ngồi phía sau bức tường để nghe lời vua huấn thị và các quan tâu việc. Ở trong cung, bà hết lòng nuôi dưỡng, dạy dỗ tất cả các hoàng tử, hoàng nữ, không phân biệt con của mình hay con của các phi tần khác. Vì thế, nhà vua thường khen bà: “Phi tính hạnh đoan cẩn, nuôi nấng các con như con của mình đẻ ra, có đức tất có phúc, con cháu hẳn được nhờ ơn”.

Năm 1847, vua Thiệu Trị băng hà, con trai của bà với nhà vua là hoàng tử Nguyễn Phúc Hồng Nhậm nối ngôi, lấy niên hiệu là Tự Đức. Nhà vua nhiều lần ngỏ ý định tấn tôn cho mẹ, nhưng bà nhất định chối từ. Mãi đến năm 1849, nhân dịp khánh thành cung Gia Thọ, bà mới đồng ý nhận Kim bảo (sách vàng và ấn vàng) và tôn hiệu là Hoàng Thái hậu.

Năm 1883, vua Tự Đức mất, để di chiếu tôn bà làm Từ Dụ Thái hoàng thái hậu (Từ: lòng nhân từ, thương yêu, Dụ: rộng rãi. Từ Dụ là rộng lòng nhân từ, thương yêu). Nhưng lúc bấy giờ, việc nước rất rối ren, cho nên đến năm 1885, vua Hàm Nghi mới có dịp làm lễ tấn tôn cho bà theo di chiếu. Cũng trong năm đó, sau lễ tấn tôn, kinh đô Huế bị quân Pháp đánh chiếm, bà cùng với hai bà vợ của vua Tự Đức theo vua Hàm Nghi xuất cung, chạy ra đến Quảng Trị. Sau đó, chuẩn lời tâu xin của nhà vua, bà và hai người con dâu mới trở lại Huế.

Năm 1887, vua Đồng Khánh tấn tôn mỹ hiệu cho bà là Từ Dụ Bác huệ thái hoàng thái hậu. Năm 1889, vua Thành Thái, nhân dịp mừng bà thọ 80 tuổi, tấn tôn mỹ hiệu bà là Từ Dụ Bác huệ khang thọ thái thái hoàng thái hậu.

Vốn là người thông tuệ, bà rất chú trọng đến việc giáo dục vua Tự Đức, nhất là đạo làm vua, đạo làm người. Những lời dạy của bà được nhà vua ghi chép thành một cuốn sách, gọi là “Từ huấn lục”. Công lao sinh thành, dưỡng dục của bà đối với vua Tự Đức tựa như trời biển. Nhà vua thường nói: “Nuôi con là mẹ, dạy con cũng là mẹ, mẹ là thầy vậy. Sinh ra con là mẹ, biết con cũng là mẹ, mẹ là trời vậy”.

Trong việc dùng người của vua Tự Đức, bà thường nhắc nhà vua phải trọng dụng những người có đức, có tài, mẫn cán tận tụy, hết lòng vì nước vì dân. Bà thường nêu gương, khen ngợi những người trung nghĩa, như Nguyễn Tri Phương, Vũ Trọng

Bình; và ước ao: “Nếu được nhiều người như thế, bổ đi mỗi tỉnh một người, thì ta không phải lo sớm tối quên ăn nữa”.

Đối với những trường hợp vua Tự Đức xử trị oan trái những người khẳng khái, trung trực, bà buộc nhà vua phải sửa sai. Bà răn dạy vua Tự Đức rất nghiêm khắc. Có lần, nhà vua đi săn bắn, nước dâng lên bất ngờ, nên không về kịp để ngự triều, khiến các quan phải ra về. Bà hay chuyện, gọi nhà vua đến cung phạt roi; mọi người ra sức can khuyên, bà mới nguôi giận, nhưng cấm nhà vua không được tự tiện đi săn bắn nữa.

Mặc dù ở ngôi cao, nhưng bà là một phụ nữ rất khiêm tốn. Bà luôn tìm cách từ chối những danh hiệu và nghi lễ tôn vinh dành riêng cho mình. Các lễ chúc thọ ngũ tuần (50 tuổi), lục tuần (60 tuổi); lấy lý do mùa màng thất bát, dân còn nghèo khổ, bà không cho triều đình tổ chức.

Bà còn là người chuộng sự tiết kiệm, ghét thói lãng phí, xa xỉ. Đồ dùng sinh hoạt hàng ngày của bà thường mộc mạc, bình dân. Quần áo, đồ trang sức cũng rất đỗi đơn giản, không cầu kỳ, xa hoa. Bà thường răn dạy các hoàng tử, công chúa tính cần kiệm.

Nghiêm khắc với bản thân và con cái, nhưng bà lại rất thương dân. Năm 1898, do thiên tai nên dân ở nhiều nơi bị đói kém. Cảm thông với nổi khổ của dân, bà đứng ra xin miễn, giảm thuế cho họ. Hiện nay, ở Huế còn lưu truyền bài vè dài đến 700 câu ca ngợi công đức đó của bà.

Điều đặc biệt là, bà không hề có ý định tham chính, nhất là từ sau khi vua Tự Đức mất (1883), triều đình nhà Nguyễn lâm vào tình trạng rối ren. Có đại thần chính thức đề nghị bà chủ trì công việc của triều đình. Nhưng, bà từ chối và bảo rằng: “Phép nhà nước ta, từ trước không có phép hoàng hậu ngồi trong nhà mành nghe chính sự”.

Năm 1902, bà mất tại kinh thành Huế, thọ 92 tuổi. Triều thần tôn thụy bà là “Nghi thiên tán thánh Từ Dụ Bác huệ trai túc huệ đạt thọ đức nhân công chương hoàng hậu”, gọi tắt là “Từ Dụ Nghi thiên chương hoàng hậu”. Bà xứng đáng là bậc “mẫu nghi thiên hạ”.

Lăng của bà được gọi là lăng Xương Thọ, tọa lạc ở bờ bắc sông Hương, thuộc xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên - Huế, gần với lăng của vua vua Thiệu Trị (Xương lăng) và lăng vua Tự Đức (Khiêm lăng), cách TP Huế khoảng 8 km. Bài vị của bà được thờ ở điện Biểu Ðức trong Xương lăng và ở Thế miếu trong Hoàng thành Huế. Ở thị xã Gò Công có một con đường mang tên bà. Ở Thành phố

Hồ Chí Minh có một bệnh viện phụ sản lớn mang tên Từ Dũ (thực ra là Từ Dụ).

Đường Từ Dũ/Từ Dụ có điểm đầu: giáp với đường Hồ Biểu Chánh; điểm cuối: giáp với Bến xe Long Hưng; chiều dài: 1,173 km; chiều rộng: 9 m.