Bước tới nội dung

Huyện Tân Hòa

Từ Gò Công Wiki
(Đổi hướng từ Tân Hòa)
Bản đồ hành chính Nam Kỳ Lục tỉnh năm 1863, với 3 tỉnh miền đông là Gia Định, Định Tường và Biên Hòa đã thuộc Pháp, còn 3 tỉnh miền tây là An Giang, Vĩnh Long, Hà Tiên vẫn thuộc Đại Nam.

Sau khi chúa Nguyễn Phúc Chu (1691–1725) mở rộng vùng đất Nam Bộ, các vùng ven biển Đông được sáp nhập vào hệ thống hành chính mới.

Trong đó, vùng đất nay là Gò Công – Tân Phú Đông – Gò Công Đông – Gò Công Tây lúc ấy thuộc khu vực hạ lưu sông Vàm Cỏ và Soài Rạp, vốn còn hoang vu, ngập mặn, dân cư thưa thớt.

Khoảng năm 1700–1730, vùng này được sáp nhập vào huyện Tân Bình (phủ Gia Định).

Đến khoảng 1757–1772, khi dân cư đã đông hơn, triều đình chúa Nguyễn tách ra lập huyện Tân Hòa, để dễ quản lý vùng ven biển và đồn điền mới khai phá.

Sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi (1802), ông cho cải tổ toàn bộ hành chính Nam Bộ.

Theo Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức (biên soạn khoảng 1820–1822), huyện Tân Hòa được xác định như sau:

“Tân Hòa huyện, thuộc phủ Tân An, phía Đông giáp biển, phía Tây giáp Tân Bình, phía Nam giáp cửa Tiểu, phía Bắc giáp sông Vàm Cỏ.”

→ Nói cách khác:

Huyện Tân Hòa bao gồm toàn bộ vùng Gò Công ngày nay, một phần đất ven biển phía Đông của Long An hiện tại, và vùng giáp cửa sông Tiền. Theo các tư liệu hành chính triều Nguyễn (như Đại Nam Nhất Thống Chí, Đại Nam Thực Lục), huyện Tân Hòa gồm:

  • Phủ quản lý: Phủ Tân An
  • Tỉnh: Gia Định
  • Huyện lỵ: đặt tại Gò Công (vì vậy mà dân quen gọi nơi này là “đất Gò Công”)

Các tổng và thôn chính:

Lúc đầu có 5 tổng, bao gồm:

  1. Tổng Long Vĩnh Thượng
  2. Tổng Long Vĩnh Trung
  3. Tổng Long Vĩnh Hạ
  4. Tổng Hòa Đồng Thượng
  5. Tổng Hòa Đồng Hạ

Trong đó:

  • Tổng Long Vĩnh Hạ là vùng trung tâm, có lỵ sở Gò Công, chợ Gò Công, và nhiều làng cổ như Long Hưng, Long Thuận, Thành Phố, Tân Đông, Tân Tây…
  • Các tổng Hòa Đồng nằm về phía biển Đông – nay là địa phận Gò Công Đông và Tân Phú Đông.

Vị trí và vai trò của Gò Công trong huyện Tân Hòa

  • Gò Công lúc này chưa phải là tên hành chính chính thức, mà chỉ là địa danh dân gian chỉ khu vực đất cao giữa vùng bãi bồi sông nước.
  • Lỵ sở huyện Tân Hòa được đặt tại đây, nên “Gò Công” trở thành tên gọi thay thế cho trung tâm huyện.
  • Tại đây có đình Thành Phố (lỵ sở), chợ Gò Công, nhà việc huyện, đồn binh, bến sông.

Nói cách khác:

“Huyện Tân Hòa là đơn vị hành chính chính thức; còn Gò Công là nơi đặt huyện lỵ, trung tâm cai trị, và sau này trở thành tên gọi quen thuộc, dần thay thế tên Tân Hòa.”

Dân cư và kinh tế thời Nguyễn

  • Cư dân phần lớn là người Việt di cư từ miền Trung và Biên Hòa, Gia Định, cùng một số người Hoa.
  • Họ khai khẩn ruộng lúa, lập vườn, đào kênh, đắp đê, và hình thành các xóm chài, xóm nghề biển.
  • Kinh tế chủ yếu: trồng lúa, làm muối, đánh bắt cá, chăn nuôi, buôn bán ghe thuyền.
  • Huyện Tân Hòa có hệ thống kênh rạch dày đặc, thuận lợi cho vận chuyển lúa gạo ra Mỹ Tho và Gia Định.

Thay đổi hành chính qua các thời kỳ sau

Năm Biến động hành chính
1808 Lập phủ Tân An, huyện Tân Hòa thuộc phủ này, tỉnh Gia Định.
1832 Sau cải cách Minh Mạng, vẫn giữ huyện Tân Hòa, thuộc phủ Tân An, tỉnh Gia Định.
1836 Triều đình tổ chức đo đạc ruộng đất, xác nhận lỵ sở tại Gò Công.
1862 Sau Hiệp ước Nhâm Tuất, Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông (trong đó có Gia Định), Tân Hòa nằm trong vùng bị chiếm.
1867–1871 Pháp đổi tên huyện Tân Hòa thành “arrondissement de Gò Công” (hạt Gò Công) — chính thức hóa tên Gò Công thay cho Tân Hòa.
1899 Bỏ chế độ “hạt”, lập tỉnh Gò Công, và trung tâm hành chính đặt tại thị xã Gò Công.

→ Như vậy, huyện Tân Hòa là tiền thân trực tiếp của tỉnh Gò Công sau này.

Tóm tắt – Huyện Tân Hòa

Mục Thông tin chi tiết
Tên Huyện Tân Hòa
Thời lập Khoảng giữa thế kỷ XVIII (thời chúa Nguyễn)
Thuộc Phủ Tân An, tỉnh Gia Định
Lỵ sở Gò Công
Các tổng chính Long Vĩnh Thượng, Long Vĩnh Trung, Long Vĩnh Hạ, Hòa Đồng Thượng, Hòa Đồng Hạ
Trung tâm hành chính Gò Công (nay là thị xã Gò Công)
Đặc trưng Vùng ven biển, đất mới khai phá, trù phú về nông nghiệp và thủy sản
Số phận sau này Đổi thành hạt Gò Công (1867), rồi tỉnh Gò Công (1899)